Thiên Chúa thương cứu con
người
(Suy niệm của
Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Anh
mù ăn xin, con ông Timê, hôm nay
được chữa lành. Khi được Đức
Giêsu gọi, anh ta vui mừng đã vứt tung
cả áo choàng để có thể mau đến với
Đức Giêsu. Nhờ đức tin soi dẫn, anh ta
đã được sáng.
I. Thiên
Chúa- Đấng thương xót con người
Vào
thế kỷ VI trước công nguyên, khi dân Do Thái đang
lưu đày, Yêrêmia đã nói với tư cách ngôn sứ:
Thiên Chúa sẽ đem dân Israel lưu đày trở về. Thiên Chúa
sẽ cứu dân Người, số sót của Israel; ngay cả những người què và
đui mù, phụ nữ với trẻ thơ, từng
đoàn từng lũ kéo nhau về. Thiên
Chúa sẽ an ủi dân Người khi
Người đem họ về. Thiên Chúa
sẽ dẫn họ tới suối nước, đi trên
đường bằng phẳng kẻo họ bị
vấp ngã, vì Thiên Chúa là cha của Israel.
Vì tội lỗi của dân, Thiên Chúa
để dân Do Thái phải lưu đầy nơi
đất khách quê người; và vì lòng nhân từ, Thiên Chúa
đưa dân Israel trở về. Đây là những
điều kỳ diệu Thiên Chúa đã làm cho dân Do Thái
trước mắt mọi dân tộc. Khi
một dân bị lưu đầy giữa một dân
tộc khác, họ sẽ bị kỳ thị, khinh bỉ,
hà hiếp, và cảm thấy nhục nhã. Dân Do Thái
đã một thời sống nơi đất khách quê
người hơn bốn trăm năm, từ thời ông
Giacóp và mãi đến thời Thiên Chúa dùng Môsê giải phóng
dân Chúa khỏi Aicập và đưa về Đất
Hứa. Lần này khi bị lưu đày
ở Babylon, Thiên Chúa đã dùng vua
người ngoại Kyrô đem dân Ngài trở về quê
hương xứ sở.
Được trở về quê hương, cũng
tương tự như được giải phóng
khỏi ách nô lệ, dân Chúa vui mừng dường bao!
Thiên Chúa là Đấng thương xót
dân Ngài. Ngài
rung động trước nỗi khổ của dân,
và Ngài đáp cứu họ. Thiên Chúa tỏ cho dân biết
Ngài là Thiên Chúa giầu lòng thương xót, quan tâm
đến dân, muốn giải phóng dân thoát khỏi mọi
nỗi khổ đau. Thiên Chúa rất gần con
người, Ngài luôn ở bên con người để có
thể nghe được tiếng họ kêu xin. Thiên Chúa là người kề cận, là
người bạn, người anh, người cha và
người mẹ đối với con người.
II.
Gọi anh ta lại đây
Đức Giêsu trong cuộc đời
đi rao giảng, Ngài cũng rung động trước
nỗi khổ của con người. Với người nghèo
đói, Ngài cho họ cơm bánh; với những
người bệnh tật như người mù,
người bại liệt, người phong cùi,
người điếc lác, Ngài chữa lành họ.
Ngài đã trải qua kiếp nghèo nên Ngài dễ thông cảm
với người nghèo; Ngài đã khổ nên Ngài dễ
thông cảm với những ai đau khổ; Ngài
được sinh ra trong hoàn cảnh cùng khổ nhất,
nên có thể thông cảm với tất cả mọi
người.
Người
mù con ông Timê nghe biết Đức Giêsu đi ngang qua, anh ta
kêu lên: “Lạy ông Giêsu, con vua Đavít, xin thương xót
tôi”. Người ta quát mắng bảo anh im đi, nhưng
anh ta lại càng la to hơn: “Lạy con vua Đavít, xin
thương xót tôi”. Đây là tiếng kêu
của người đau khổ, người cùng
khốn, không biết nại vào điều gì để xin
người khác ban ơn cho mình, chỉ còn biết nại
vào lòng thương xót của người khác. Anh ta
không có lý do gì để xin điều mình muốn xin,
chỉ nhờ hoàn toàn vào lòng thương của người
khác. Đức Giêsu là người cảm
thương anh hơn cả; người khác quát mắng
đòi anh im lặng nhưng Đức Giêsu thì khác. Người khác có thể không tin, nên đòi anh im
lặng; còn anh, anh hy vọng, anh tin, nên anh càng la to hơn.
Lạy con vua Đavít, xin thương xót tôi. Đức
Giêsu dừng lại. Ngài đã nghe
thấy tiếng kêu cứu, kêu xin Ngài cứu. Ngài không
thể bước đi vì tiếng kêu xin này! “Gọi anh ta tới đây”. Anh
ta mừng, nhẩy lên, vứt cả áo choàng. Hy
vọng tràn trề: Ngài đã cho gọi anh, Ngài đã nghe
tiếng anh, đã quan tâm tới anh. “Anh
muốn ta làm gì cho anh? Lạy thầy, xin cho tôi
được sáng”. Một câu quá ngắn, nhưng lại
quá khó khăn đối với con người! “Lòng tin của anh đã cứu anh”.
Đức
Giêsu là đại diện Thiên Chúa đối với con
người. Ngài sống giữa con
người như những người nghèo hèn nhất,
cùng khốn nhất; Ngài có thể nghe tiếng kêu cứu
của con người. Ngày xưa, Thiên Chúa đã nghe
tiếng dân Israel kêu cứu khi phải sống lầm than
ở Aicập, Ngài đã sai Môsê đi cứu họ; ngày
nay, Thiên Chúa cũng luôn nghe tiếng kêu cứu của con
người. Thiên Chúa cũng sai bao người đại
diện Ngài thương cứu con người hôm nay. Mỗi người đều được
Thiên Chúa mời gọi trở thành tình yêu của Thiên Chúa
cho tha nhân.
III.
Đức Giêsu- Vị thượng tế cảm thông
nỗi khổ đau của con người
Một
người không thể là thượng tế theo ý mình muốn, nhưng là một ân huệ
được Thiên Chúa trao tặng. Đó là
một ơn gọi. Vị
thượng tế cũng là một người như bao
người khác, cũng yếu đuối và lỗi
lầm, nên phải dâng lễ tạ tội cho dân và cho chính
mình. Vị thượng tế là
người thông cảm với người khác, vì chính ngài
cũng cảm thấy mình mong manh mỏng dòn như
người khác vậy. Vị
thượng tế được chọn giữa bao
người, để làm trung gian giữa Thiên Chúa và con
người.
Tác
giả thư Do Thái nhận ra
Đức Giêsu Kitô là vị thượng tế; vị
thượng tế này không phạm tội cho dù Ngài chia
sẻ hoàn toàn thân phận con người. Vị
thượng tế này rất gần con người cho dù
Ngài không phạm tội, vì Ngài cũng chia sẻ tất
cả những gì là con người. Ngài không là tội
nhân vì phạm tội không thuộc về bản chất
con người. Thiên Chúa không tạo dựng con
người để con người phạm tội,
nhưng tạo dựng con người để con
người nên giống Thiên Chúa và thuộc về Thiên Chúa.
Đức
Giêsu Kitô là biểu lộ tình thương của Thiên Chúa
đối với con người. Đức Giêsu
thương cảm con người, tức là, Thiên Chúa
thương cảm con người. Đức Giêsu là Thiên
Chúa ở với con người: Thiên Chúa hiện diện
với con người trong mọi nỗi gian khổ và
thăng trầm của họ trong cuộc sống, Ngài
đói với người đói, khát với người
khát; Ngài đau với người đau, khổ với
người khổ. Ngài muốn con người nhận ra
rằng: Thiên Chúa yêu con người, và Thiên Chúa muốn con
người ở trong tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình thương. Ai sống yêu
thương là con cái Thiên Chúa. Ai yêu
thương anh em là yêu thương Thiên Chúa. Thiên Chúa
thương cứu con người nhờ Đức Giêsu
Kitô.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Với bạn, từ ngữ
nào diễn tả Thiên Chúa cách tuyệt nhất?
2. Bạn thích Đức Giêsu
ở điểm nào nhất?
3. Bạn ao ước Thiên Chúa
làm gì cho bạn?
|