Mù có phải là
bất hạnh không?
(Suy niệm của
Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
Khi
nghĩ đến người mù, nhất là những
người bị mù bẩm sinh, ta thường nghĩ
đến hai chữ “tội nghiệp”, “đáng
thương”, hay “bất hạnh”. Dĩ nhiên có khi chính
bản thân người mù cảm thấy bất hạnh
thật vì họ không được nhìn thấy ánh sáng,
không được nhìn thấy vẻ đẹp thiên nhiên,
nhất là không được nhìn thấy những
người thân yêu của mình. Và ngay cả
khái niệm về màu sắc, họ cũng không biết
đến.
Tuy
nhiên, giữa người mù và người sáng, chưa
chắc ai bất hạnh hơn ai. Có khi vì mắt sáng
tỏ, nên người ta bất hạnh hơn là bị mù
loà. Bằng chứng là trong các vụ án trộm cắp,
lường gạt, đâm chém, hiếp đáp, ngoại
tình,…, ta có thấy thủ phạm nào là
người mù không, ngoại trừ những người
sáng mắt? Trong số những dân chơi cuồng quay
nơi các vũ trường ngập ngụa ma tuý,
thuốc lắc, hàng “đá”, ta có bắt gặp bóng dáng
người khiếm thị nào bên cạnh những
người mắt sáng ở đó không? Trước vành
móng ngựa xét xử các quan tham vô lại, có lẽ ta
cũng khó mà tìm được một bị cáo nào là
kẻ mù loà ở đấy; có chăng chỉ toàn là
những người cả hai mắt đều tỏ
đều tường!!! Và nếu ta cất
công thắp đuốc đi tìm các tù nhân là người mù
trong các trại giam, chắc chắn ta sẽ thất
vọng vì nơi đó chỉ thấy toàn những
người có đủ cả hai mắt. Vậy thì ai “bất hạnh” hơn ai?
Người mù hay người sáng? Bởi
thế, khi nhìn thấy một người mù, khoan đã cho
rằng người đó tội nghiệp, người
đó bất hạnh. Hạnh phúc hay bất hạnh
không hệ tại ở việc sáng hay mù cặp mắt
thể lý, nhưng là hệ tại ở việc sáng hay mù
cặp mắt tâm hồn, cặp mắt đức tin.
Trong câu chuyện Tin Mừng Chúa Nhật
hôm nay, ta thấy Bartimê là một người mù loà, hành
khất bên vệ đường ngoại thành Giêricô. Không biết anh có thuộc “Hội
Người Mù” nào hay không! Song thiết
tưởng anh là một người lương thiện.
Anh sống bằng những gì kiếm
được từ lòng hảo tâm của người
khác. Mặc dù nghèo, nghèo nên phải đi ăn xin, nhưng cuộc đời anh thanh
thoát. Anh sống vô tư giản dị, không bon chen giành giật, không tính toán hơn thua, không
đua đòi ăn diện. Anh cũng không vợ nọ con
kia, không rượu bia các thứ. Có
lẽ anh cũng chưa bao giờ phạm vào những
tội “đội sổ” của con người thời
đại hôm nay: buôn gian bán lận, lậu thuế
trốn thuế, tham ô, móc ngoặc, hối lộ, hay rút
ruột các công trình xây dựng… Suốt cả
cuộc đời, chắc hẳn anh cũng chưa
hề lường gạt, bóc lột hay hãm hại ai.
Tắt một lời, anh sống hoàn toàn ngay
chính.
Hơn
thế nữa, trong khi rất nhiều người sáng
đôi mắt thể lý, lại mù loà trước ánh sáng vô
hình, không thể nhận ra Chúa Giêsu là ai, thì anh mù Bartimê này
lại “thấy tỏ tường” chính Đức Giêsu là
ai. Anh không van xin Chúa bằng danh xưng “Giêsu Nazareth”, mà dùng
danh xưng “Con Vua Đavít” - một danh xưng ám chỉ
tước hiệu Đấng Mêsia. Tiếng kêu lớn
tiếng của anh khi bị mọi người ngăn
cản: “Lạy Con Vua Đavít”, đồng thời cũng
là một lời tuyên xưng niềm tin vào chính Đức
Giêsu là Đấng Cứu Thế, Đấng mà anh tin là
sẽ phục hồi sự sáng cho anh. Bởi đó, khi
được Chúa Giêsu hỏi anh muốn xin gì, anh không xin
Chúa Giêsu mua cho anh mấy tờ vé số, cũng không xin Chúa
Giêsu cho anh ít đồng bạc cắc bố thí, như anh
đã từng nói với những người qua lại, mà
anh chỉ xin Chúa Giêsu cho anh được thấy, tức
là được sáng mắt. Nếu không tin
Chúa Giêsu là Đấng có thể mở được
mắt cho nguời mù bẩm sinh, anh đã không xin Ngài
điều này.
Đồng
ý “đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn”,
nhưng không phải một khi “cửa sổ” ấy
bị đóng vĩnh viễn do mù loà là đương nhiên
tâm hồn trở nên tối tăm băng giá như vùng
bắc cực đâu. Ngược lại
nữa là khác. Khi đôi mắt của
họ không còn khả năng thấy được
những thực tại hữu hình, thì tâm hồn họ
lại rất bén nhạy với những thực tại
vô hình. Bởi đó người ta
bảo rằng người mù thường cảm nhận
rất sâu xa về những thực tại siêu linh, và
họ cũng rất nhạy bén trước những
nỗi thống khổ của anh em đồng loại.
Nói cách khác, người mù thường có cặp mắt
đức tin sáng tỏ, như trường hợp anh mù
Bartimê hôm nay.
Dẫu
chưa một lần được gặp gỡ hay
diện kiến Đức Kitô; chưa một lần
được trực tiếp nghe những lời Ngài giảng
dạy, cũng chưa một lần được phúc
chứng kiến các phép lạ Ngài đã làm; anh chỉ
mới được nghe người ta nói về con
người của Đức Giêsu; thế mà anh đã tin. Anh tin một cách mãnh liệt. Và
nhờ niềm tin đó, anh đã gặp được
hiện thân lòng nhân hậu của Thiên Chúa, hiện thân
của những mối phúc thật là Đức Giêsu Kitô.
Anh được Chúa phục hồi sự sáng, sự sáng
của cặp mắt thể lý, và quan trọng hơn là
cặp mắt đức tin nơi anh vốn đã sáng nay
sáng tỏ hơn. Từ đây đời anh
hoàn toàn đổi mới. Còn hạnh
phúc nào bằng? Anh đã tự nguyện dấn
bước theo Chúa trong niềm vui trào
tràn.
Sẽ
thật hạnh phúc cho tôi, nếu tôi có đôi mắt
thể lý lẫn đôi mắt tâm linh sáng ngời.
Ngược lại, sẽ thật bất hạnh biết
bao nếu tôi có đôi mắt thân xác sáng tỏ nhưng
đôi mắt tâm hồn lại mù tối như đêm ba
mươi. Hãy tạ ơn Chúa vì Ngài đã ban cho tôi có
đôi mắt thể lý chưa một lần phải
đến bác sĩ nhãn khoa. Xin Ngài gìn giữ tôi, để
đôi mắt đức tin của tôi cũng luôn
được tinh tường sáng suốt. Đặc
biệt xin Chúa cho những người mù luôn giữ
được cái tâm trong sáng để cuộc đời
của họ không bao giờ là “bất hạnh”, là “đáng
thương” như người ta vẫn nghĩ. Amen.
|