BỆNH TẬT
Việt
ngữ thật thú vị: Bệnh Tật. Bệnh thì có
Tật, và có thể thành Tật – đôi khi cái tật
“mệt” hơn cái bệnh. Đau đâu khốn
đấy. Khổ lắm! Thế nên tiền nhân xác
định: “Một nụ
cười bằng mười thang thuốc bổ”. Sống
vui vẻ là lối sống lành mạnh, ít phải sử
dụng thuốc men hoặc phải “hỏi thăm”
thầy thuốc. Điều đó cũng có nghĩa là
những người khó tính, nóng nảy, hay hờn
giận, thường là những người dễ bị
bệnh. Đúng vậy, “Ăn được, ngủ
được là tiên – Không ăn, không ngủ, mất
tiền, đâm lo”. Sức khỏe tinh thần và sức
khỏe thể lý luôn có liên quan lẫn nhau. Có thể nói đây
là một chân lý bất biến: “To
vòng bụng, ngắn vòng đời”. Người ta
bảo rằng “phát tướng thì phát tài”, thật ra
lại là “phát tướng thì… phát tang”.
Thiên Chúa đã tạo
dựng các cơ phận rất hợp lý (2 mắt, 2 tai, 2
tay, 2 chân,... 1 đầu, 1 miệng, 1 tim), chắc chắn không
phần nào thiếu hoặc thừa, ngay cả “ruột
thừa” (appendix) cũng vẫn không thừa, bởi vì nó có
một số tác dụng miễn dịch quan trọng và
một số tác dụng khác – phát triển cả bào thai và
người lớn.
Bất cứ cơ
phận nào khác thường thì sẽ khổ lắm.
Chỉ là nhức răng thôi mà nhiều người đã
phải khóc như cha mẹ chết. “Cái răng, cái tóc là
gốc con người”, đúng vậy! Con mắt là
cửa sổ tâm hồn, nó chỉ mờ thôi đã khổ
rồi, huống chi nó cứ “khép chặt” thì… ôi thôi,
khổ biết chừng nào! Thế nên phải tìm cách
“mở” nó ra. Y học và khoa học tìm đủ cách mà
nhiều người vẫn chưa thỏa ước
nguyện là được nhìn đời. Mù lòa mắt
thể lý là khổ, mù lòa mắt tâm linh còn khổ hơn.
Thế nên cần phải cầu xin Thiên Chúa để Ngài
phán một lời chữa lành: “Effatha!
Ép-pha-tha! Εφφαθα! Hãy mở ra!”.
Thế nhưng “mở
ra” cũng có nhiều mức độ, không chỉ
đơn giản là “không đóng, không khép”. Mở thế
nào: Mở toang hay mở hé? Động từ “mở ra”
thường được nghĩ ngay tới mở
một vật gì đó – theo nghĩa đen. Nhưng “mở
ra” cũng có nghĩa bóng, tức là “mở lòng ra”, đó
mới là ý nghĩa quan trọng của đời sống
con người, nhất là đời sống Kitô hữu, nghĩa
là phải sống cởi mở và yêu thương. Cả
nghĩa đen và nghĩa bóng đều có những thứ
“dễ mở” và “khó mở”, đôi khi có thể “không
mở được” hoặc “không chịu mở”.
Vấn đề là chỗ đó!
Cũng cần can
đảm và quyết tâm khi “mở ra”. Thế nên ngày
xưa, ngôn sứ Isaia khuyên những kẻ nhát gan: “Can đảm lên, đừng
sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới
ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt
tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em”
(Is 35:4). Đó là Giờ Cứu Độ, Ngày Công Lý, (cũng
có thể) là ngày Đức Kitô giáng lâm, vì thời
đại chúng ta đang sống là Thời Cánh Chung. Thời
giờ cứu độ là lúc “mắt người mù
mở ra, tai người điếc nghe được,
kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi
người câm sẽ reo hò” (Is 35:5-6a). Lúc đó sẽ “có
nước vọt lên trong sa mạc, khe suối tuôn ra
giữa vùng đất hoang vu; miền nóng bỏng biến
thành ao hồ, đất khô cằn có mạch nước
trào ra; trong hang chó rừng ở sậy, cói sẽ mọc
lên” (Is 35:6b-7). Mọi sự trở nên mới, hoàn toàn thay
đổi, và thật là hạnh phúc cho những ai vẫn
giữ vững niềm tin vào Thiên Chúa: “Kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy
sẽ được cứu thoát” (Mt 10:22; Mc 13:13; Lc
21:19).
Tận thế ư? Xa
hay gần? Chắc chắn “ngày tận thế” ai cũng
chứng kiến là lúc mình chết, lúc chúng ta trút hơi
thở cuối cùng để giã biệt thế gian. Đó
là “giờ cánh chung” của mỗi cuộc đời chúng
ta. Còn ngày tận cùng của thế gian này chẳng ai
biết lúc nào, ngay cả các thiên sứ trên trời hay
người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi
(Mt 24:36; Mc 13:32).
Thiên Chúa thấu suốt
mọi sự, kể cả những điều chúng ta
chưa nghĩ tới, Ngài chí minh và chí thiện: “Người là Đấng
giữ lòng trung tín mãi muôn đời, xử công minh cho
người bị áp bức, ban lương thực cho
kẻ đói ăn” (Tv 146:7a). Không chỉ vậy, Ngài còn
“giải phóng những ai tù tội, mở mắt cho kẻ
mù loà; cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên;
và yêu chuộng những người công chính” (Tv 146:7b-8). Thiên
Chúa là Đấng giàu lòng thương xót nhưng cũng nhất
mực công bình, Ngài “phù trợ những khách ngoại
kiều, nâng đỡ cô nhi quả phụ, nhưng phá
vỡ mưu đồ bọn ác nhân” (Tv 146:9). Và chỉ có Ngài
mới là người duy nhất nắm giữ
vương quyền muôn muôn thuở và hiển trị đời
đời. Ngài là Thiên Chúa của hôm qua, hôm nay và mãi mãi (Dt
13:8).
Ngài toàn năng nên Ngài làm
được tất cả những gì mà loài người
“bó tay”. Ngài “mở” được mọi thứ, dù
điều đó phàm nhân không thể làm gì được.
Thậm chí những tấm lòng chai đá nhất, những
“cửa lòng” khó mở nhất hoặc hầu như “không thể
mở ra”, thế mà Ngài vẫn khả dĩ thâm nhập và
“mở” được: Phêrô, Phaolô, Maria Mađalêna (bị 7
quỷ kiềm chế), Augustinô,... Vì thế, chúng ta càng
phải cần nhớ đến Ngài, kêu van Ngài xót
thương và gìn giữ chúng ta từng giây phút, qua từng
hơi thở, bởi vì không có Ngài thì chúng ta chẳng làm gì
được (Ga 15:5).
Thật chí lý với
lời khuyên của Thánh Giacôbê: “Anh
em đã tin vào Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, là Chúa vinh
quang, thì đừng đối xử thiên tư” (Gc 2:1).
Rất rõ ràng, rất rạch ròi. Không thiên tư, không thiên
vị là thế nào? Đó là không phân biệt đối
xử: Không coi trọng người giàu mà khinh chê
người nghèo, không qụy lụy người chức quyền
mà áp bức người cô thân yếu thế, không nịnh
người tâng bốc mà ghét người trực tính,… Đó
là cách sống công bình, là cách thể hiện công lý, và đó
mới là cách sống mà Thiên Chúa mong muốn nơi mỗi
chúng ta.
Và không hề úp mở
hoặc bóng gió, Thánh Giacôbê nói thẳng luôn: “Giả như có một người bước vào
nơi anh em hội họp, tay đeo nhẫn vàng, áo
quần lộng lẫy, đồng thời có một
người nghèo khó, ăn mặc tồi tàn, cũng
bước vào, mà anh em kính cẩn nhìn người ăn
mặc lộng lẫy và nói: ‘Xin mời ông ngồi vào
chỗ danh dự này’, còn với người nghèo, anh em
lại nói: ‘Đứng đó!’ hoặc: ‘Ngồi
dưới bệ chân tôi đây!’, thì anh em đã chẳng
tỏ ra kỳ thị và trở thành những thẩm phán
đầy tà tâm đó sao?” (Gc 2:2-4). Tình trạng này
rất thường thấy, giống như một
định dạng phân biệt hoặc kỳ thị
mặc nhiên vậy.
Thật thế chứ
chẳng oan ức chi, có thể chúng ta không hề nói ra
bằng lời nhưng động thái, ánh mắt và cử
chỉ của chúng ta lại “tố cáo” chúng ta “kỳ
thị” và “xét đoán” người khác, thế mà chúng ta vẫn
tự nhận là đang sống đức công bình. Cái loại
“tưởng” như vậy rất nguy hiểm, nếu
không chấn chỉnh thì không yên thân với Chúa đâu
đấy!
Cuộc sống luôn có
những vấn đề nhỏ mà không nhỏ, đơn
giản mà khó xử lý. Có bao giờ chúng ta động lòng
trắc ẩn với một người nghèo đứng
bơ vơ ở một góc đường? Có bao giờ
chúng ta cầu nguyện cho những người bị tai
nạn khi nghe người khác nói, khi thấy trên ti-vi
hoặc trên internet? Có bao giờ chúng ta cầu nguyện cho
một người qua đời khi chúng ta đi trên
đường và thấy đám tang, dù người đó
thuộc tôn giáo khác? Có bao giờ chúng ta nghĩ về món
nợ mình phải trả cho những người nghèo khó
và đau khổ hơn mình? Đặc biệt là trong hoàn
cảnh đất nước hiện nay, chúng ta có cầu
nguyện cho quê hương Việt Nam? Thánh Phaolô vừa căn
dặn vừa truyền lệnh: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ
tương thân tương ái; vì ai yêu người thì đã
chu toàn Lề Luật” (Rm 13:8). Đức ái quá lớn
lao. Và món nợ này chúng ta phải trả cho đến
hơi thở cuối cùng. Ai thanh toán xong
đồng-xu-yêu-thương-cuối-cùng đó thì mới
được vào Nước Trời. Chúa Giêsu nói thật
chứ chẳng đùa đâu, vì Thiên Chúa rất mực công
bình và chính trực. Chắc chắn là phải “hai năm rõ
mười”. Vấn đề thực sự đáng quan
ngại!
Và rồi Thánh Giacôbê
đặt vấn đề: “Nào
Thiên Chúa đã chẳng chọn những kẻ nghèo khó
trước mặt người đời để
họ trở nên người giàu đức tin và thừa
hưởng vương quốc Người đã hứa
cho những ai yêu mến Người hay sao?” (Gc 2:5). Chắc
chắn như vậy! Chàng trai Phanxicô ở thành Assisi đã
sống đúng nghĩa đen của chữ nghèo theo Tin
Mừng nên được mệnh danh là “Phanxicô nghèo khó”,
thế nên mới được làm “công dân Nước
Trời”.
Thế nhưng trong
thực tế của cuộc sống đời
thường, ai nghèo đều bị khinh và bị
người khác “không thèm ngó”, thậm chí còn bị mỉa
mai là “bộ mặt hãm tài”. Trong một nhóm người,
một hội đoàn hoặc một giáo xứ, chúng ta
thấy rõ ai có “máu mặt” đều được bề
trên “lưu ý” người ta “chăm chút”, được đề
cao, được “yêu quý”, được “lưu ý”, được
“săn đón”, được mời chào, được
“hỏi thăm”, được tiếp đón nồng
hậu,… Xin lễ hoặc xin khấn cũng có loại
“giá” riêng. Nếu theo kiểu cầu nguyện như
thế thì người giàu được cầu nguyện
nhiều, và dễ lên thiên đàng, còn người nghèo thì
đừng hòng nhìn thấy cổng thiên đàng, vì không có
tiền thì chẳng ai cầu nguyện cho, do đó mà “đi
chỗ khác chơi”. Việc “yêu người như chính mình”
hoặc “thương người nghèo” chỉ là… nói cho vui
thôi! Người có quyền và có tiền thì trở thành
người có “thế” (vị trí và giá trị). Vì vậy, người
Việt thường nói: “Miệng
nhà giàu có gang, có thép”, họ có nói sai hoặc làm sai cũng
thành đúng “tất tần tật”, hoặc như kiểu
nói khác: “Nhà giàu đứt tay
bằng ăn mày đổ ruột”. Sự thật minh
nhiên: Có tiền được gọi là “ông”, không có
tiền bị gọi là “thằng”. Và người ta
thường thở dài não nuột: “Đời là thế!”. Thế thì buồn
thật!
Theo lời kể của
Thánh sử Mác-cô, hôm đó Đức Giêsu bỏ vùng Tia,
đi qua ngả Xiđôn, đến biển hồ Galilê vào
miền Thập Tỉnh. Người ta đem một
người vừa điếc vừa ngọng đến
với Ngài và xin Ngài đặt tay trên anh. Ngài kéo riêng anh ta
ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh,
và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Chúa
Giêsu đúng là “siêu bác sĩ”, là “thần y”, bởi vì Ngài
chữa bệnh mà không hề dùng thuốc men gì – không
thuốc Tây, không thuốc Nam hoặc thuốc Bắc, mà
chữa bệnh bằng… nước miếng. Không chỉ
lạ mà hay quá là hay, đặc biệt là có hiệu
quả hơn bất cứ loại thuốc nào khác trên
đời. Ôi chao, đúng là trên cả tuyệt vời!
Thật vậy, sau khi
“nhổ nước miếng và bôi vào lưỡi bệnh
nhân”, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời, rên một
tiếng và nói: “Ép-pha-tha, hãy
mở ra!” (Mc 7:34). Thánh sử Mác-cô cho chúng ta biết
một “chi tiết lạ” là Chúa Giêsu RÊN một tiếng. Và
rồi lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như
hết bị buộc lại. Chỉ cần bôi
nước miếng mà bệnh nhân hết điếc và
hết ngọng, anh ta nói được rõ ràng. Sư
phụ Giêsu tài quá, độc chiêu quá, tuyệt vời quá!
Phàm ngôn không có từ ngữ để mô tả một cách
trọn vẹn nhất.
Chắc chắn không ai có
thể làm được như Ngài, thế nhưng Chúa Giêsu
không khoe khoang, không khoác lác, không “nổ” chút nào, mà Ngài bắt
người ta không được kể chuyện đó
với ai. Ngài càng cấm thì họ càng đồn ra.
Tiếng lành đồn xa là vậy, và đó là chuyện
tất yếu thôi. Ôi, điều kỳ diệu thế làm
sao im lặng được, làm sao mà cấm nổi? Không
bàn tán xôn xao sao được vì ai cũng hết sức
kinh ngạc và khâm phục: “Ông
ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm
cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói
được” (Mc 7:37). Có ai thấy “siêu bác sĩ” mà
không bàn tán chứ? Chắc chắn không thể im lặng
được! Và thế là “siêu bác sĩ” Giêsu nổi
như cồn, trở thành “siêu sao” ngay lập tức.
Tuyệt vời quá chừng! Giả sử chúng ta là các tông
đồ thấy Sư phụ như vậy thì chúng ta “lên
nước” và “nổ banh trời” chứ chẳng chơi.
Thế nhưng không thấy Kinh Thánh nói gì về các môn
đệ, chắc là họ đã thấm thía bài học
khiêm nhường mà Thầy Giêsu đã dạy.
Thông thường thì
chứng câm đi đôi với chứng điếc,
gọi là câm điếc – có lẽ liên quan dây âm thanh,
việc phát âm và lắng nghe không thể tách rời
chăng? Đó là chứng câm điếc thể lý, còn
về tâm linh, chúng ta cũng có những lúc bị “bệnh
câm điếc”. Triệu chứng thế nào? CÂM là không muốn
nói về Chúa, không nói lời tốt, thấy sai mà không dám
nói; còn ĐIẾC là không chịu nghe Lời Chúa, không nghe
lời khuyên, cố chấp. Chứng câm điếc tinh
thần thật là đáng sợ lắm. Càng đáng sợ
hơn khi không nhận biết mình bị câm điếc
hoặc không chịu “mở ra”. Cần lắm sự
tỉnh táo, sáng suốt và khôn ngoan, đặc biệt là
ơn Chúa!
Lạy
Thiên Chúa toàn năng, mọi cửa đời của chúng
con vẫn khép chặt và khóa bằng ổ khóa ích kỷ, xin
thương mở cửa đời đầy “gỉ sét
tội lỗi” của chúng con để chúng con mở
đời và thoát khỏi chứng câm điếc, xin chữa
lành bệnh đời và tật đời của chúng con,
xin giúp chúng con tuyên xưng Thánh Danh Ngài và kiên tâm chờ đợi
Con Chúa giáng lâm. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu
Kitô, Đấng cứu độ của nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
|