Đường
lên Núi Chúa
(Suy niệm của Như Hạ, OP)
Đời là một cuộc
hành trình lên núi Chúa. Trên bước
đường trần gian, nhiều biến cố
dồn dập đến với con người.
Biết bao người đã không leo
đến đỉnh núi … Chính vì thế, Đức Giêsu
đã mạc khải con đường sáng dẫn
đến nguồn sống cho toàn thể nhân loại.
Đức Giêsu đã đi vào một
trần gian đầy những con người thiển
cận. "Chúa họ thờ là cái
bụng." (Pl 3:19) Đi từ nhu cầu cấp
thiết và căn bản nhất, Đức Giêsu muốn
mạc khải về chính bản thân: "Tôi là bánh từ
trời xuống," (Ga 6:41)
để đem lại sự sống vĩnh cửu.
Quả thực, "Ai ăn bánh này,
sẽ được sống muôn đời." (Ga 6:51) Nói khác, để lên "núi của Thiên Chúa,"
(1 V 19:8) phải có một thứ lương thực mang
lại sự sống đời đời.
Chính nguồn gốc và năng
lực bánh ấy đã trở thành vấn đề cho
"người Do thái xầm xì phản đối,"
(Ga 6:41) vì họ không tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa.
Đức tin này vượt quá nhận thức về
thực tại và nguồn gốc tầm thường
của Người. Dân Do thái đã từng xầm xì
trước khi đón nhận nước và manna trong sa
mạc (x. Xh 15:24; 16:2,7,12). "Xầm xì là một
điển hình về 'lòng bất tín.'" (The New
Jerome Biblical Commentary 1990:962) Những
đầu óc bảo thủ không thể thoát khỏi
sức chi phối của những nếp suy nghĩ và phong
tục thời đại. Nói khác, đó
là phản ứng của con người tự nhiên.
Rõ ràng đức tin không phải là thái
độ tự nhiên. "Không phải con người,
nhưng Thiên Chúa mới đóng vai tích cực nhất trong
công cuộc cứu độ." (Life Application Study Bible
1991:1888) Không được Thiên Chúa giúp đỡ và soi
sáng, không ai có thể tin vào Đức Giêsu Kitô. Nhờ Thánh linh thúc đẩy, con người có
thể đi đến một lựa chọn quyết
liệt trước ngưỡng cửa vĩnh cửu.
Thánh linh là sức lôi hút của Chúa Cha.
Chính Đức Giêsu quả quyết: "Chẳng ai
đến với tôi được, nếu Chúa Cha là
Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy."
(Ga 6:44) Thánh Phaolô là môt trường hợp
điển hình. Ông đã từng
chống đối quyết liệt niềm tin vào
Đức Giêsu. Thế nhưng, ông đã không
chống cưỡng nổi sức lôi hút ấy khi dấn
thân theo Chúa.
Trên hành trình về nhà Cha,
nhiều người cũng đang bị lôi hút mãnh
liệt. Trước hết, họ
"được Thiên Chúa dạy dỗ"(Is 54:13; Gr
31:34) để có thể đặt tất cả niềm
tin vào Đức Giêsu Kitô. Những tia
nắng dọi thấu con tim đó sẽ làm bừng lên cả
một mùa hồng ân. Thế nhưng, ân
sủng Thiên Chúa không bao giờ là một sức mạnh
giết chết tự do. Chính ở niềm tin, con
người chứng tỏ mức độ tự do cao
cả nhất. Thực tế, không phải
cứ biết là tin. Đức Giêsu chứng minh:
"Phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha,
thì sẽ đến với tôi." (Ga 6:45) Có
nhiều người chỉ nghe những gì muốn nghe,
đón nhận những gì hợp sở thích và quyền
lợi riêng. Họ "thuộc về
đất và nói những chuyện dưới
đất." (Ga 3:31)
Trái lại, "chỉ có
Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính
Đấng ấy đã thấy Chúa Cha" (Ga 6:46) mới có thể mạc khải về sự
sống huyền nhiệm và tình yêu sâu thẳm nơi Thiên
Chúa. Đạt tới đỉnh cao ấy, con
người phải trải qua một hành trình rất dài,
dài hơn "cuộc hành trình lên núi Khôrếp" (1 V 19:4)
của ngôn sứ Êlia trong sa mạc. Làm sao đạt tới đích, nếu không có
lương thực? Thực tế, không
có một thứ lương thực trần gian nào có
thể giúp con người đi đến cùng
đường. Kinh nghiệm lịch sử Do thái
đã cho Đức Giêsu thấy: "Tổ tiên các ông
đã ăn manna trong sa mạc, nhưng
đã chết." (Ga 6:49)
Không có bánh trường sinh là
chính Đức Giêsu (Ga 6:48), làm sao lên núi Chúa?
Không những "ai ăn (bánh này) thì khỏi
phải chết" (Ga 6:50), mà còn
"được sống muôn đời" (Ga 6:51) trong Nhà Chúa. Bởi vậy,
Đức Giêsu trở thành lương thực vô cùng
cần thiết. Người còn nói rõ: "Bánh tôi
sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho
thế gian được sống" (Ga 6:51) mà hoàn thành cuộc hành trình về Nhà
Cha. Muốn được thế, Đức Giêsu
"đã tự nộp mình làm hiến lễ, làm hy lễ
dâng lên Thiên Chúa tựa hương thơm
ngào ngạt," (Ep 5:2) và trở thành "bánh hằng
sống" (Ga 6:51) bổ
dưỡng muôn dân trên đường lên núi Chúa. Khác hẳn với bánh nuôi sống ngôn sứ Êlia,
"bánh hằng sống" có khả năng làm cho tín
hữu "sống lại trong ngày sau hết." (Ga
6:44)
Như thế "bánh hằng sống"
vừa là của ăn đàng vừa
giúp tín hữu đạt tới hạnh phúc sau cùng. Trên hành
trình trần gian, nhờ "bánh hằng sống",
người tín hữu có khả năng "bắt chước
Thiên Chúa" (Ep 5:1) để "sống trong tình bác
ái." (Ep 5:2) Nói khác, nhờ "bánh hằng
sống", các tín hữu hiệp nhất với nhau.
Thật thế, "bởi vì chỉ có
một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng
một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta
cũng chỉ là một thân thể." (1 Cr 10:17)
Hiệp nhất lớn nhất
tỏ lộ trong lời cầu nguyện trong Thánh thể.
Thật vậy, "cầu nguyện đem lại
niềm hi vọng, niềm vui và ánh sáng, nhờ chân thành
cậy dựa vào Thiên Chúa và thánh ý đầy tình yêu của
Người. Đây là sức mạnh lời
cầu nguyện, nguyên nhân sinh ra sự sống và ơn
cứu độ." (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 9/7/03) Chính
lời cầu nguyện trước Thánh Thể giúp tín
hữu liên kết với Chúa Cha và "có thể đón
nhận tất cả tình yêu cứu độ và trọn
vẹn sự sống của Người."
(ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 9/7/03)
Không được "bánh hằng
sống" ấy bổ dưỡng, không thể có
sức mạnh vượt qua những cơn đau
buồn và sẽ "lâm vào cảnh cô độc và chết
chóc, vì Chúa là nguồn sống." (ĐGH Gioan Phaolô
II: Zenit 9/7/03) Bởi đấy, "bánh hằng sống" là
một mối lợi lớn nhất giúp người
lữ hành trần gian thoát khỏi cơn đói khát và
đủ sức đi trọn đường lên núi Chúa.
|