Ngôn Sứ Vĩ Đại
(Suy niệm của Như Hạ, OP)
Sau bao nhiêu thập niên chờ đợi,
cuối cùng mọi người đã thấy tất
cả sự thật về bí mật Fatima.
Đức Mẹ đã đóng vai ngôn sứ của thế
kỷ 20. Mẹ đã đóng vai ngôn sứ tuyệt vời
vì Mẹ đã học nơi Đức Giêsu Con Mẹ khi
còn sống trên trần gian. Lời Mẹ vang vọng
cả một nguồn mạc khải đã
được Đức Giêsu truyền đạt cho nhân
loại. Kitô hữu vui sướng lắng nghe. Cũng
như Mẹ, họ mong trở thành ngôn sứ cho thời
đại.
NHẬN DIỆN VỊ NGÔN SỨ
Sau khi chứng kiến "dấu lạ Đức
Giêsu làm", dân chúng kháo láo: "Hẳn ông này là vị ngôn
sứ, Đấng phải đến thế gian!" (Ga
6:14). Dấu lạ đó chính là một hành vi bác ái phát
xuất từ một quả tim biết động lòng
trắc ẩn trước những nhu cầu quần
chúng. Người là một vị ngôn sứ đến
thế gian, không phải để "cứu rỗi các
linh hồn" mà thôi. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay,
Chúa không làm những dấu lạ thiêng liêng, nhưng toàn là
"những dấu lạ Người đã làm cho
những kẻ đau ốm" (Ga 6:3) và cho hàng ngàn
người "no nê" cá và bánh. Dĩ nhiên Chúa không
dừng lại ở các dấu lạ đó, nhưng
hướng tới một mục đích cao hơn. Không
dừng lại không có nghĩa là không quan trọng. Trái
lại, thân xác giữ một vai trò tất yếu. Nếu
không có thân xác không thể đọc ý nghĩa dấu
lạ. Nếu không cần thân xác, Chúa đã không mất
nhiều thời giờ đi đây đó tìm kiếm
những người đau ốm và đói khát. Cứ
để hết thời giờ vào việc suy tư
cầu nguyện có lẽ sẽ cứu rỗi nhiều
linh hồn hơn. Nhưng có lẽ sẽ chỉ làm vui tai
mấy nhà trí thức kinh viện mà thôi.
Đức Giêsu không xuống trần gian
để cứu rỗi các linh hồn. Đúng hơn,
Người đến cứu con người toàn diện.
Thứ tự không phải đi từ trên xuống
dưới, nhưng từ thấp lên cao. Thực tế,
có thực mới vực được đạo.
Nếu bỏ tất cả những dấu lạ trong Tin
Mừng, chắc chắn Đức Giêsu không thể qui
tụ nhiều người và tạo được
một thế đứng lớn lao trong lịch sử
cứu độ như thế. Dân chúng đã đánh giá Đức
Giêsu như "vị ngôn sứ" chỉ vì đã
thấy được hành vi bác ái rất cụ thể
của Người. Như vậy, đức ái có tính ngôn
sứ. Thánh Gioan khẳng quyết: "Có đông
đảo dân chúng đi theo Người, bởi họ
từng được chứng kiến những dấu
lạ Người đã làm cho những kẻ đau
yếu." (Ga 6:3)
Người làm được những
dấu lạ đó không phải từ hư vô, nhưng
từ những chiếc bánh và con cá có sẵn. Những cái
có sẵn đó chỉ là một số lượng ít
ỏi. Nhưng đó là sự đóng góp của con
người. Rất cần thiết. Rất quan trọng.
Nhưng phần cần thiết, quan trọng và chính
yếu hơn chính là Thiên Chúa. Bởi thế, sau khi các môn
đệ gom được "năm chiếc bánh lúa
mạch và hai con cá" (Ga 6:9) từ chiếc giỏ
của một em bé, "Đức Giêsu cầm lấy bánh,
dâng lời tạ ơn" (Ga 6:11) Thiên Chúa Cha. Nhờ
đó thần lực đã hoạt động mãnh liệt
và cấp thời, biến số lượng bánh và cá
nhỏ nhoi đó thành những thúng bánh khổng lồ nuôi
sống muôn dân giữa cơn đói khát. Thật là ngoài
sức tưởng tượng của các môn đệ và
dân chúng. Trong cái tính toán bình thường, trước
một đám đông dân chúng, các ông chỉ có thể suy
nghĩ: "Có mua đến hai trăm quan tiền bánh
cũng chẳng đủ cho mỗi người một
chút," (Ga 6:7) hay "ở đây có một em bé có năm
chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần
ấy người thì thấm vào đâu!" (Ga 6:9) Đúng
là tính toán của con người! Nhưng Thiên Chúa có
những tính toán khác hẳn. Người không bị lệ
thuộc bất cứ hoàn cảnh nào, vì Người toàn
năng. Tin chắc như thế, nên "Đức Giêsu
nói: 'Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống
đi'." (Ga 6:9) Việc gì phải đến đã
đến. Người đã làm được tất
cả những gì Người muốn.
Từ một nhu cầu tầm thường
vật chất, Người đã có thể hướng
người ta về một điểm cao hơn. Tự
lòng đầy khâm phục Chúa, dân chúng đã phải
thốt lên: "Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng
phải đến thế gian!" (Ga 6:15) Thấy Đức
Giêsu tài tình như thế, họ tìm cách "tôn làm vua."
(Ga 6:15) Tôn làm vua không phải vì Người, nhưng vì chính
tương lai của họ. Mặc dầu đầu óc
còn trần tục khi muốn tôn phong Đức Giêsu làm vua,
nhưng ít nhất dân chúng cũng thấy nơi
Người dấu chỉ về lòng Chúa xót thương.
Chỉ cần được hướng dẫn một
chút, tâm trí họ có thể bay cao hơn để nhận
ra Người chính là "Đấng ngự đến
nhân danh Đức Chúa!" (Mt 21:9) Nếu Người
được tôn làm vua, còn đâu vai trò ngôn sứ?!
Bởi thế, Người đã "lánh mặt, đi lên
núi một mình" (Ga 6:15)
để trọn vẹn sống ơn gọi làm ngôn
sứ. Ngôn sứ đã ở một vị trí thật
đẹp: trung gian giữa Thiên Chúa và con người.
Một vị trí như thế không thể lệ thuộc
vào bất cứ cơ chế hay vinh hoa trần gian nào. Có
thế, ngôn sứ mới có thể nhân danh Thiên Chúa (Đnl 18:22) nói với những
người đang sống bám vào cơ cấu. Chính vì
thế thân phận ngôn sứ luôn bị cơ chế bách
hại. Cuộc đời Đức Giêsu chứng minh
tất cả sự thật về thân phận ngôn sứ.
CHIỀU KÍCH NGÔN SỨ
Đức Giêsu đã không làm dấu lạ
một mình. Chung quanh Người có các môn đệ,
những người trực tiếp góp phần vào
việc tạo thành dấu lạ đó. Cảnh
tượng dân chúng ồn ào vì hành trình mệt mỏi
khiến Thày trò xốn xang. Các môn đệ lo ra mặt khi
Thày đề nghị: "Ta mua đâu ra bánh cho họ
ăn đây?" (Ga 6:5) Ông Philipphê đi xục xạo
khắp nơi để tìm bánh và cá cho Thày. Cuối cùng các
ông cũng tìm được với niềm thất
vọng trước nhu cầu lớn lao của quần
chúng. "Chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá, nhưng
với ngần ấy người thì thấm vào đâu!"
(Ga 6:9) Tất cả chỉ có thế. Đó lại là
phần đóng góp của "một em bé."(Ga 6:9) Em bé
đã sẵn sàng dâng cho Chúa, mặc dầu cũng đang
đói khát như mọi người xung quanh. Không ai từ
chối đóng góp vào việc tạo dấu lạ cho muôn
dân nhận ra Đức Kitô là Ngôn sứ. Dĩ nhiên Chúa
chẳng cần đến chất liệu cũng như
con người để tạo nên những dấu lạ
đó, vì Người là Đấng Toàn Năng. Nhưng
Người muốn cho mọi người cùng tham gia vào
công cuộc cứu độ. Người muốn mọi
người "đều là ngôn sứ." (Ds 11:27)
Nếu đức bác ái mang tính ngôn sứ, thì
không ai có thể từ chối trở thành ngôn sứ.
Mỗi hành vi bác ái, dù nhỏ bé nhất, đều là
một dấu lạ, là một phương tiện
cần thiết để "sống cho xứng với
ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban."(Ep 4:1) Nếu không
sống bác ái, dù có mọi nhân đức khác, chúng ta không
thể hiệp nhất với Thiên Chúa, vì "chỉ có
một Chúa, một niềm tin, một phép rửa. Chỉ
có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng
ngự trên mọi người, qua mọi người và
trong mọi người." (Ep 4:5-6) Chính trong sự
hiệp nhất với Chúa Kitô và với anh em, chúng ta
sẽ làm được những dấu lạ mang tính ngôn
sứ, và làm cho mọi người nghe được
tiếng nói Thiên Chúa. Có hiệp nhất mới có hi
vọng. Bởi thế, thánh Phaolô khuyên: "Anh em hãy
thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí
đem lại, bằng cách ăn ở thuận hòa gắn
bó với nhau. Chỉ có một thân thể, một Thần
Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi
để chia sẻ cùng một niềm hi vọng." (Ep
4:3-4) Thần Khí là Đấng "đã dùng các ngôn sứ
mà phán dạy." (Kinh Tin Kính) Người cũng đang
tiếp tục phán dạy muôn dân qua những hành vi hiệp
nhất đầy tính ngôn sứ của các Kitô hữu.
Sức mạnh hiệp nhất các Kitô
hữu chính là Thánh Thể, tấm bánh bẻ ra cho muôn dân.
Thánh Thể chính là dấu lạ Chúa đã thiết lập
để duy trì và phát triển cộng đoàn Kitô hữu.
Chỉ có Kitô hữu mới nhìn ra ý nghĩa và hình bóng
dấu lạ này nơi dấu lạ hóa bánh. Nếu
dấu lạ hóa bánh đã qui tụ được dân
chúng, chắc chắn Thánh Thể còn hiệp nhất
được muôn dân hơn nữa, vì nơi Thánh Thể,
sức mạnh Thiên Chúa đang hoạt động
để thực hiện giao ước đối
với nhân loại. Nơi đây cũng thể hiện
sự hiệp nhất với đầu là Đức Kitô
và với tất cả những ai là chi thể của
Người (Fink 1990:439). Nhờ đó Thiên Chúa
được hoàn toàn vinh quang và con người
được nên thánh. Dấu lạ tìm kiếm dấu
lạ. Dấu lạ Thánh Thể đang kêu mời
những dấu lạ tình yêu nơi các Kitô hữu. Bạn
có muốn trở thành dấu lạ giữa muôn dân như
Thánh Thể đang ở giữa chúng ta không?
|