Được
ăn no nê
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
SDB)
Hầu hết các nhà Thánh Kinh học
đều cho rằng chương sáu của sách Tin Mừng
thứ tư là diễn từ về đề tài ‘Bánh
Trường Sinh’, mà phép lạ Đức Giêsu hóa bánh ra
nhiều chỉ là phần dẫn nhập, hay là dịp
để Người đề cập tới đề
tài quan trọng này. Đúng là Đức Giêsu đã tự
giới thiệu mình là ‘Bánh bởi trời, bánh
trường sinh, bánh làm no thỏa…’, thế nhưng - tôi
vẫn thườnng tự hỏi - chủ đề
đích thực của bài thuyết pháp quan trọng này
của Ráp-bi Giêsu có phải là để chứng minh ‘bánh
vật thể’ trở thành một ‘Ki-tô hữu thể’, hay
chỉ đơn giản là một ‘lời mời ăn
Bánh’, tức là chủ đề của bài diễn từ
nhằm diễn tả mối quan tâm, tình yêu chăm sóc
của Thiên Chúa dành cho con người?
Phối hợp với tường thuật
của Phúc Âm Mác-cô, cũng chương sáu, ta có thể
thấy trình tự vấn đề được tác
giả Gioan đặt ra như sau: - Đức Giêsu tỏ
rõ mối quan tâm chăm sóc các tông đồ nhọc mệt
trở về sau cuộc hành trình truyền giáo; mối quan
tâm của Người sau đó còn rộng mở cho đám
dân chúng, khi Người ‘chạnh lòng thương, vì họ
như bầy chiên không người chăn’ (Mc 6:34). Phép
lạ làm bánh hóa nhiều để cho dân chúng ăn no
chẳng qua là dấu hiệu cụ thể của mối
bận tâm từ ái đó; chính vì vậy mà khi nhận
thấy đám đông dừng lại ở việc
được ăn bánh thỏa thích, Đức Giêsu
đã phải cất công giải thích, chỉ cho họ
thấy được sự chăm sóc từ nhân của
Thiên Chúa mới chính là điều họ cần tìm kiếm.
Phần mình, khi tự đồng hóa với ‘bánh
trường sinh’, điều duy nhất Người
muốn nhấn mạnh đó là: sự quan tâm chăm sóc
của Thiên Chúa đối với loài người đã lên
tới đỉnh điểm… “Thiên Chúa đã yêu thế
gian đến nỗi đã ban Con Một…” Từ một
biểu lộ chăm sóc được cụ thể hóa
qua phép lạ hóa bánh ra nhiều để đám đông dân
chúng được ăn no thỏa,
Đức Giêsu rõ ràng muốn họ nhận ra rằng
họ đang được Thiên Chúa từ ái yêu
thương chăm sóc tới mức nào. Chính Đức
Ki-tô, và toàn bộ sự hiện diện của
Người nơi trần gian, là một thứ ‘Bánh
bởi trời’, nhưng không phải là thứ ‘Thánh
Thể’ để người ta phải khúm núm tôn thờ,
cho bằng là của ăn nuôi sống để làm cho
họ được no thỏa; và so sánh này chỉ
đạt ý một khi qua đó nhân loại nhận ra Thiên
Chúa yêu thương họ hết tình.
Từ kinh nghiệm cụ thể
được ăn bánh, các môn đệ và nhiều
người Do Thái thành tâm lẽ ra phải khám phá ra chân lý
vĩ đại: Thiên Chúa là Người Cha đầy yêu
thương, hằng quan tâm tới con cái, và ra tay chăm
sóc chúng (xem Mt 7:11; Lc 11:13). Nội dung này chính là cuộc hành
trình đức tin mà mọi Ki-tô hữu chúng ta cần làm.
Tiến trình này phải đưa chúng ta tới việc tin
nhận Đức Ki-tô Giêsu – Bánh hằng sống như
một biểu hiện tột đỉnh của tình yêu
chăm sóc của Chúa Cha. Tiến trình này quả thực
đầy thách đố đối với các tông
đồ nói riêng và người Do Thái nói chung,
đơn giản là vì khái niệm Thiên Chúa như là
người Cha yêu thương chăm sóc còn rất lu
mờ và khá xa lạ đối với cách suy nghĩ
của Cựu Ước.
Thế còn đối với
Ki-tô hữu chúng ta ngày nay thì sao? Cảm
nghiệm thiêng liêng nền tảng này của Tân Ước
có lẽ lại bị chúng ta đảo ngược trái
chiều chăng?
Ít nhất về khái niệm,
Ki-tô hữu đã quá quen thuộc với việc gọi
Thiên Chúa là Cha. Cả ngàn lần họ
kêu lên ‘Lạy Cha chúng con ở trên trời!’ Thế
nhưng khái niệm này đa phần vẫn còn nằm trên
mặt lý thuyết trừu tượng như một công
thức; cũng thế, ý tưởng ‘Đức Ki-tô -
bánh trường sinh’ vẫn chỉ là một khái niệm
thần học mang tính suy luận (speculative). Cái cảm
nghiệm thực tế rằng, với việc trao ban
‘Bánh trường sinh’, Thiên Chúa đã thực sự
đặt tôi trong sự no thỏa của tình yêu
Người, rằng Người là cha nhân ái hằng
chăm sóc tới từng chi tiết đời sống con
người, chăm sóc tới độ gần như
thừa bứa ‘thu những miếng thừa của năm
chiếc bánh người ta ăn còn lại… cũng
chất đầy được mười hai thúng’;
đó chính là cảm giác đã từng được Phao-lô
diễn đạt như sau: “Đến như chính Con
Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao
nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi
đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại
chẳng ban tất cả cho chúng ta” (Rm 8:32).
Cảm giác này có lẽ còn quá xa lạ đối với
phần đa Ki-tô hữu chúng ta ngày nay; thay vì chỉ
ngưỡng mộ Thiên Chúa là Cha cách chung chung, tôi thiết
nghĩ, mỗi Ki-tô hữu nên cụ thể có những giây
phút nhìn sâu vào đời sống mình để nhận ra,
đàng sau mọi thành công hay may nắm lớn nhỏ,
kể cả đàng sau những thất bại ê chề
hay đại họa, đều có cả một dàn
xếp tinh vi và tế nhị của một ‘Ai Đó’
đầy từ tâm và nhân ái. Đó mới chính là chiều
sâu đức tin của Ki-tô hữu chúng ta, một
chiều sâu đích thị mang lại vui mừng và hy
vọng, bình an và phó thác trong mọi tình
huống cuộc đời. Trọn đời
người Ki-tô hữu, nếu được đặt
trên nền tảng vững chắc này, thì kể cả
trong các thử thách gian truân của cuộc sống
thường ngày, sẽ luôn phải là an
bình và vui tươi (xem Rm 8:38-39).
Phải chăng đó mới đích thực
là niềm tin sống động và trưởng thành mà
mọi Ki-tô hữu chúng ta cần cất công vun đắp
hàng ngày, nhất là trong thế giới và xã hội hiện
đại?
Lạy Chúa! Lúc
được ăn, con cần hiểu bàn tay
nào đang cho con ăn, cõi lòng nào đang nuôi nấng con.
Mỗi khi rước lễ, xin cho con không chỉ nghĩ
tới thứ bánh nào con đang được ăn
(dầu đó là bánh trường sinh Thánh Thể đi
nữa), nhưng ngày càng nghiệm ra rõ hơn cõi lòng nhân ái của
Cha trên trời đang âu yếm dưỡng nuôi con bằng
chính Người Con Chí Thánh. Xin cho việc cử hành Thánh
Thể sẽ gia tăng niềm tin tưởng phó thác
nơi con mỗi ngày. Amen.
|