CHUYỆN
LẠ –
QUEN
(Chúa
nhật XIV TN, năm B)
Người
ta nói: “Quen
sợ dạ, lạ sợ áo”.
Dạ là bề trong, áo là bề
ngoài. Quen nhau càng lâu thì người
ta càng biết tính nhau, ai thẳng ai cong
cũng thể hiện phần nào (chứ chẳng
bao giờ hiểu hết nhau). Sợ hay không là
ở “điểm” đó. Còn với
người lạ (hoặc chưa quen), người
ta thường nhìn vào bề ngoài mà
“đánh giá” – dù biết
rằng “chiếc áo không làm nên
thầy tu” hoặc “tốt danh hơn lành
áo”. Nhưng con người là thế,
ít nhiều cũng bị chi phối bởi
ngoại tại. Do đó mà người
ta sẵn sàng mua danh, mua tước, thích
vênh vang khoe mẽ, ỷ lại. Thậm chí
có kẻ còn ngông tới mức “chưa
đỗ ông nghè đã đe hàng
tổng”.
Trong
cuộc sống, khi đề cập vấn đề
“không hay”, người ta thường
nói: “Đèn
nhà chưa tỏ, ngoài ngõ đã
hay”.
Và chúng ta cũng nghe nói: “Giòi
từ trong xương giòi ra”.
Nghĩa là người ngoài có biết
“chuyện kín” của gia đình
thì cũng do chính các thành viên
trong gia đình đó “xì” ra.
Chứ đèn trong nhà chưa tỏ làm
sao ngoài ngõ đã hay? Không nói
ra thì chẳng ai bảo mình câm, nhưng
nói ra rồi thì rõ mười mươi,
mà những kẻ “nói như sáo”
thường là những “chiếc thùng
rỗng” to lớn – ngày nay gọi là
“ngu chảnh”. Kinh Thánh xác định:
“Sống
hay chết đều do cái lưỡi, ai yêu
chuộng nó, sẽ lãnh nhận hậu
quả”
(Cn 18:21).
Sự
khôn – dại khác xa nhau: “Dạ
người khôn ở nơi tang tóc, lòng
kẻ dại ở chốn vui chơi”
(Gv 7:4). Cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh
Khiêm (1491-1585) nói: “Ta
dại ta tìm nơi vắng vẻ, người
khôn người đến chốn lao xao”
(thi phẩm Cảnh Nhàn). Và còn hơn
thế nữa, tác giả sách Giảng
Viên cho biết: “Trong
cuộc đời phù du của tôi, tôi
đã thấy hết cả: có người
công chính bị tiêu vong dầu đã
sống công chính, có kẻ gian ác
lại được sống lâu dầu đã
làm điều ác”
(Gv 7:15). Nhiêu khê quá! Chuyện đời
thường có những chuyện rất bình
thường nhưng cũng… rất khác
thường, có loại nghịch-lý-thuận
và thuận-lý-nghịch mà trí tuệ
phàm nhân thô thiển không thể
hiểu hết!
Ngày
xưa, một thần khí đã nhập
vào ngôn sứ Êdêkien đúng
như lời Chúa phán với ông và
làm cho chân ông đứng vững, y như
lời Chúa đã báo trước:
“Hỡi
con người, hãy đứng cho vững, Ta
sắp nói với ngươi đây”
(Ed 2:1). Ngài gọi ông là “con
người”. Và Ngài chỉ nói
thôi mà con người phải chuẩn bị
tinh thần trước kẻo run sợ. Thiên
Chúa phán với ông: “Hỡi
con người, chính Ta sai ngươi đến
với con cái Ít-ra-en, đến với
dân phản nghịch đang nổi loạn
chống lại Ta; chúng cũng như cha ông
đã nổi lên chống lại Ta mãi
cho đến ngày nay”
(Ed 2:3).
Chính
“dân phản nghịch” đó cũng
là chúng ta ngày nay. Thiên Chúa
gọi chúng ta là “những đứa
con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ
đá”, và chính Thiên Chúa
sai Tiên tri Êdêkien đến thông báo
cho dân chúng biết những lời “Đức
Chúa là Chúa Thượng phán dạy”.
Thiên Chúa nói: “Chúng
vốn là nòi phản loạn, chúng có
thể nghe hoặc không nghe, nhưng chúng
phải biết rằng có một ngôn sứ
đang ở giữa chúng”
(Ed 2:5). Ngài hoàn toàn cho chúng ta tự
do, nghe hay không là tùy ý, nhưng
vẫn phải nhận biết những “dấu
chỉ” mà Ngài cho phép xuất
hiện, đôi khi các “dấu chỉ”
đó rất bình thường nên
chúng ta dễ coi thường và bỏ
qua. Thiên Chúa không muốn cầu kỳ,
Ngài muốn giản dị để chúng
ta dễ hiểu.
Thế
nhưng chúng ta lại chỉ là loài
phàm phu tục tử, đôi khi có mắt
mà như không tròng, mặc dù hằng
ngày chúng ta vẫn “ngước mắt
hướng nhìn lên Chúa, Đấng
đang ngự trên trời” (Tv 123:1), và
“như mắt của gia nhân hướng
nhìn tay ông chủ, như mắt của nữ
tỳ hướng nhìn tay bà chủ, mắt
chúng ta cũng hướng nhìn lên Chúa
là Thiên Chúa chúng ta, tới khi Ngài
xót thương chút phận” (Tv 123:2).
Rất tha thiết khi cầu xin cho chính mình.
Tuy nhiên, đôi khi chúng ta lại ích
kỷ ngay trong lúc cầu nguyện. Thế mới
chết. Đúng như Kinh Thánh đã
xác định: “Vàng
bạc trân châu: nhiều vô kể, miệng
lưỡi thông thái: thật hiếm hoi!”
(Cn 20:15). Không hề đơn giản!
Không
đơn giản có thể là bình
thường, mà cũng có thể là
phức tạp. Thông thái không phải
để làm chuyện to, việc lớn, mà
là để nhận biết Thiên Chúa:
“Xin
cho con được trí thông minh, để
vâng theo luật Ngài và hết lòng
tuân giữ. Xin ban trí thông minh, để
con được am tường thánh ý”
(Tv 119:34 và 125). Quả thật, không có
Chúa thì chúng ta chẳng làm được
trò trống gì (x. Ga 15:5). Mà ai trong
chúng ta có làm được gì
“khác” hoặc (có vẻ) “hơn”
người một chút thì cũng chẳng
được người khác công nhận,
thậm chí còn bị ghen ghét và
bị miệt thị. Tệ hại thay là
người đó còn bị chính thân
nhân và bạn bè xa lánh. Cuộc
sống đời thường cho chúng ta thấy
có những người khi “ra ngoài”
thì được nhiều người khâm
phục và ca tụng, nhưng khi về quê
nhà thì bị dân làng và người
thân nhìn bằng nửa con mắt. Thế
cũng may lắm rồi, chứ người đó
còn bị chê trách và xa lánh
nữa kìa!
Là
con người bình thường với đầy
đủ thất tình (bảy cảm xúc
của con người: Hỉ, Nộ, Ai, Lạc,
Ái, Ố, Dục), tất nhiên họ cũng
không thoát khỏi những lúc cô
đơn và u buồn não lòng, thậm
chí họ cũng chẳng dám làm gì
thêm. Thế nên họ chỉ còn biết
đêm ngày than thở với Chúa: “Dủ
lòng thương, lạy Chúa, xin dủ
lòng thương, bởi chúng con bị
khinh miệt ê chề; hồn thật quá ê
chề vì hứng chịu lời nhạo báng
của phường tự mãn, giọng khinh
người của bọn kiêu căng”
(Tv 123:3-4). Cuộc đời vẫn có những
nghịch lý không thể giải thích,
như tác giả sách Giảng Viên tâm
sự: “Trong
cuộc đời phù du của tôi, tôi
đã thấy hết cả: có người
công chính bị tiêu vong dầu đã
sống công chính, có kẻ gian ác
lại được sống lâu dầu đã
làm điều ác”
(Gv 7:15).
Phàm
nhân yếu đuối – vì YẾU mà
hóa ĐUỐI. Vậy mà con người
vẫn thường tỏ ra kiêu căng và
tự mãn, trong khi kiêu ngạo chính là
“mối tội” hàng đầu trong
bảy mối tội. Người ta dễ ảo
tưởng và kiêu ngạo hơn nếu
có được chút tài năng nào
đó bẩm sinh (thiên phú, thiên
bẩm, chứ chưa hẳn là thiên tài),
mà quên rằng đó là nhờ ơn
Chúa, vì họ cứ tưởng mình
hơn người, là “cái rốn”
của vũ trụ, là niềm mơ ước
của người khác. Vì thế, rất
cần liệu pháp để chữa kiêu
ngạo, đó là đức khiêm
nhường: “Khiêm
nhường chớ kiêu ngạo”
(Kinh “Cải Tội Bảy Mối”).
Liên
quan động thái kiêu ngạo, Thánh
Phaolô tâm sự: “Để
tôi khỏi tự cao tự đại vì
những mặc khải phi thường tôi đã
nhận được, thân xác tôi như
đã bị một cái dằm đâm
vào, một thủ hạ của Satan được
sai đến vả mặt tôi, để tôi
khỏi tự cao tự đại”
(2 Cr 12:7). Chính thánh nhân tự thú:
“Đã
ba lần tôi xin Chúa cho thoát khỏi
nỗi khổ này”
(2 Cr 12:8). Nhưng Chúa vẫn “làm ngơ”,
và còn quả quyết với thánh
nhân: “Ơn
của Thầy đã đủ cho anh, vì
sức mạnh của Thầy được biểu
lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối”
(2 Cr 12:9a).
Thật
kỳ lạ: Mạnh mà hóa yếu; yếu
mà lại mạnh. Thiên Chúa luôn có
những kiểu “ngược đời”
hoàn toàn khác phàm nhân chúng
ta. Khả dĩ cảm nhận sâu sắc điều
đó, Thánh Phaolô chia sẻ: “Tôi
rất VUI MỪNG và TỰ HÀO vì
những yếu đuối của tôi, để
sức mạnh của Đức Kitô ở mãi
trong tôi”
(2 Cr 12:9b). Và ông còn hãnh diện
cho biết thêm: “Tôi
cảm thấy VUI SƯỚNG khi mình yếu
đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn,
bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức
Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là
lúc tôi mạnh”
(2 Cr 12:7-10). Cuộc sống có nhiều thứ
tưởng chừng là nghịch lý mà
lại thuận lý, “khôn – dại”
là một trong các dạng đó: “Dạ
người khôn ở nơi tang tóc, lòng
kẻ dại ở chốn vui chơi”
(Gv 7:4)
Kinh
Thánh cho biết rằng có một dịp
Chúa Giêsu cùng các môn đệ
về thăm Nadarét (Mc 6:1-6; Mt 13: 53-58; Lc
4:16-30). Đó là “nơi chôn nhau
cắt rốn”, quê quán của Ngài.
Đến ngày sa-bát, Ngài bắt đầu
giảng dạy trong hội đường. Nhiều
người nghe rất đỗi ngạc nhiên
về những lời nói khôn ngoan của
Ngài, cho nên họ bàn tán: “Bởi
đâu ông ta được như thế?
Ông ta được khôn ngoan như vậy,
nghĩa là làm sao? Ông ta làm được
những phép lạ như thế, nghĩa là
gì?”
(Mc 6:2). Họ hỏi nhau vậy vì họ không
muốn tin vào những gì họ chứng
kiến tỏ tường, vả lại họ
biết tỏng Chàng Giêsu kia là ai. Còn
ai trồng khoai đất này nữa? Đúng
vậy, Chàng Giêsu chỉ là con trai Bác
thợ mộc Giuse và Cô Maria, gia đình
nghèo rớt mồng tơi, ai mà không
biết, cũng là anh em họ của mấy
anh chàng tên Giacôbê, Giôxết,
Giuđa và Simôn, cũng là anh chị
em với bà con lối xóm chứ chẳng
ai xa lạ. Quen mà!
Ôi
chao, thế thì làm sao mà tin được,
làm sao mà coi trọng được, làm
sao mà tâm phục khẩu phục khi Chàng
Giêsu đã từng sống ở cái
làng Nadarét nhỏ bé, từng làm
mộc với Bác Giuse, và từng chơi
đùa với họ chứ? Vì thế, họ
dè bỉu Ngài, khinh miệt Ngài, đến
nỗi Ngài đã không thể làm
được phép lạ nào tại đó
(Mc 6:5). Quen quá hóa lờn, phàm nhân
tồi tệ vì định kiến là
thế. Do đó có những người
đã “vấp ngã vì Ngài”
(Mc 6:3).
Ngài
“đi guốc” trong bụng họ và
biết tỏng họ đang nghĩ gì nên
Ngài nói thẳng với họ: “Ngôn
sứ có bị rẻ rúng thì cũng
chỉ là ở chính quê hương
mình, hay giữa đám bà con thân
thuộc, và trong gia đình mình mà
thôi”
(Mc 6:4). Cách nói nhẹ nhàng mà
thâm thúy quá, xoáy vào tận
đáy lòng sâu thẳm của mọi
người. Chuyện đời thường như
thế và vẫn hằng ngày xảy ra
khắp nơi, từ thôn quê tới thành
thị, từ người nhỏ tới người
lớn, từ thường nhân tới người
có chức tước, từ người ít
chữ tới người nhiều chữ, từ
người đời tới người có
niềm tin tôn giáo,… Người ta vẫn
thường nhìn nhau bằng những “ánh
mắt mang hình viên đạn”, dành
cho nhau những lời nói “sắc như
dao cau”, với những ánh mắt “giết
người không cần dao”,… Một
phần cũng là kiểu “con gà tức
nhau tiếng gáy”, đồng thời cũng
chỉ vì định kiến, nếp nghĩ
thiển cận và cổ hũ.
Cuối
cùng, Thánh Mác-cô xác định:
“Ngài
đã không
thể làm được phép lạ nào
tại đó, chỉ đặt tay trên một
vài bệnh nhân và chữa lành họ”
(Mc 6:5). Về quê mà chẳng vui gì!
Chúa Giêsu còn “bó tay” trước
động thái của những người
đồng hương huống chi chúng ta,
những người không đáng xách
dép cho Ngài. Thiên Chúa vẫn luôn
tôn trọng tự do của con người, dù
họ nghĩ xấu về Ngài.
Vấn
dĩ xưa nay vẫn thế, thời nào cũng
vậy, nhưng có lẽ ngày nay người
ta coi trọng bề ngoài và “ưa
xét” về vật chất hơn. Người
nghèo nói chẳng ai nghe, có nói
đúng cũng hóa sai; người giàu
nói gì cũng được lắng nghe,
có nói sai cũng hóa đúng. Kinh
Thánh nói sự thật phũ phàng:
“Trí
khôn ngoan hơn cả sức mạnh, nhưng
cái khôn của người nghèo lại
bị khinh dể, lời người ấy nói
chẳng ai chịu lắng nghe”
(Gv 9:16). Tục ngữ Việt Nam ví von: “Cả
vú lấp miệng em”.
Người giàu có thể biến đen
thành trắng, có tội thành vô
tội, thậm chí có thể mua chuộc
cả công lý. Có thể nghèo không
là tội nhưng lại là “cái
vạ” – và cũng là “cái
họa”. Tục ngữ Việt Nam so sánh:
“Văn
hay chữ tốt không bằng ngu dốt lắm
tiền”.
Một sự thật quá phũ phàng vẫn
xảy ra trong xã hội loài người!
Chắc
chắn có một sự thật minh nhiên:
Chúa Giêsu nói đúng và làm
hay, nhưng chỉ vì “cái nghèo”
nên Ngài không được người
ta nghe lời, thậm chí còn bị ném
đá, rồi bị kết án tử và
chịu chết nhục nhã trên thập
giá. Chính Ngài cũng ngạc nhiên
khi thấy “họ không tin” (Mc 6:6). Chúng
ta là môn sinh, là tôi tớ, là
bụi tro, là tội nhân,… tất
nhiên cũng không thoát khỏi sự
khinh ghét của người khác. Âu
cũng là lẽ thường của thế
thái nhân tình!
Lạy
Thiên Chúa, chúng con chẳng khác
loại “bom nổ chậm” có thể
gây nguy hiểm bất cứ lúc nào,
xin giúp chúng con biết chân nhận tài
năng và công sức của người
khác, đừng bao giờ ghen tỵ hoặc
mưu hại người khác. Lạy Đấng
chí thánh, xin giúp chúng con luôn
biết sống khiêm nhường và yêu
thương, tất cả chỉ để tôn
vinh Ngài mà thôi, đồng thời
giúp chúng con đừng bao giờ tỏ
ra kiêu căng tự mãn – dù chỉ
là một thoáng trong ý nghĩ. Chúng
con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu
Kitô, Đấng cứu độ của nhân
loại. Amen.
TRẦM
THIÊN THU
|