Sự cứng lòng tin - Anmai, CSsR
Nhìn lại lịch
sử cứu độ, Thiên Chúa luôn ở bên con
người và Thiên Chúa dùng đủ mọi cách để
tiếp cận với con người. Khi thì nói gián
tiếp, khi thì nói trực tiếp, khi thì dùng người
này, khi thì dùng người kia. Những người nói
Lời Thiên Chúa cho dân là các ngôn sứ của Chúa. Các ngôn
sứ chuyển tải thông điệp của Thiên Chúa cho
dân.
Vì lẽ con
người thường đi ngược với Thiên
Chúa, con người không muốn sống trong vòng tay che
chở của Thiên Chúa nên đã đi nghịch lại
với thánh ý của Thiên Chúa và con đường mà Thiên
Chúa vạch ra nên biết bao nhiêu lần tương quan
giữa con người và Thiên Chúa đổ vỡ. Thiên
Chúa là đấng chậm bất bình và giàu lòng thương
xót đã không nỡ bỏ con người, Thiên Chúa dùng các
ngôn sứ để tiếp tục răn đe có, an
ủi có, khích lệ có. Đáng tiếc thay bản tính con
người ngỗ nghịch nên những lời mà các ngôn
sứ nói ra thì có người được đón nhận,
có người bị khước từ và thậm chí có
người còn bị giết.
Một trong những
ngôn sứ thời Cựu Ước đã nói Lời Thiên
Chúa đó là ngôn sứ Êdêkien, Êdêkien ý thức rõ rệt mình
đã được sai đến trong một thời
khủng hoảng: lúc mà Israel phải suy nghĩ lại về số
mạng mình. Israel đang bị xâu xé phân chia theo nhiều
hướng: hãnh diện trong hiện tại, tủi
hổ nghĩ đến thời xưa, tin cậy, và ngã
lòng hối hận; hèn nhát mà cũng gan dạ, Êdêkien cũng
như các ngôn sứ trong thời lưu đày đã
đặt nền móng cho một nền tảng mới
đó là lòng tin vào Thiên Chúa.
Đoạn sách mà
chúng ta vừa nghe cho chúng ta biết sứ mạng mà Thiên
Chúa gửi Ngài đến với dân: "Hỡi con
người, chính Ta sai ngươi đến với con cái
Israel, đến với dân phản nghịch đang
nổi loạn chống lại với Ta; chúng cũng
như cha ông đã nổi lên chống lại Ta mãi cho
đến ngày nay. Những đứa con mặt dày mày
dạn, lòng chai dạ đá, chính Ta sai ngươi
đến với chúng: 'Đức Chúa là Chúa Thượng
phán thế này'. Còn chúng, vốn là nòi phản loạn, chúng
có thể nghe hoặc không nghe, nhưng chúng phải biết
rằng có một ngôn sứ đang ở giữa chúng".
(Ed 2, 2-5). Rõ ràng chúng ta thấy sứ mạng của Êdêkien.
Không chỉ mình Êdêkien nhưng nhiều và ngôn sứ cùng chung
chịu số phận như Êdêkien.
Trang tin mừng mà
chúng ta vừa nghe thánh Máccô thuật lại không còn là xa
lạ với chúng ta. Trang Tin mừng hôm nay thuật lại
cho chúng ta về hình ảnh Con Một Thiên Chúa. Các ngôn sứ
nói, con người không chịu nghe, Thiên Chúa đã sai chính
Con Một của Ngài xuống để nói cho dân nhưng
hình như dân cũng đâu có nghe. Hôm nay, Chúa Giêsu trở
về quê hương, mang theo sứ điệp cứu
độ nhưng đáng tiếc thay Ngài đã đụng
đầu với sự cứng lòng tin của những
người đồng hương quen thân.
Trình thuật này có
thể qui chiếu tới bối cảnh nơi Mc 3, 20-35
ở đó Chúa Giêsu bị hiểu lầm và nghi ngờ,
song cũng ở đó sứ điệp thần học
về Đấng Thiên sai cứu độ được
phác họa một cách hùng hồn. Cũng thế, thảm
trạng cứng tin của dân làng Nadaret là một thứ
mặt phản tương của mầu nhiệm
đức tin.
Để thấy rõ
hơn ý nhắm thần học của Máccô, chúng ta thử
lưu ý đến lược đồ câu chuyện
của thánh ký:
+ Trước hết
đó là thái độ kinh ngạc thán phục của
những kẻ nghe lời giảng dạy và nghe biết
các phép lạ (c. 2)
+ Vấn nạn
về lý lịch của Chúa Giêsu (c. 3a)
+ Phản ứng
cứng tin (c. 3b)
Đó là một
thứ lược đồ về mầu nhiệm
cứng tin, mặt phản tương của mầu
nhiệm đức tin (x. Lc 4,16-30; Ga 7,14-29). Nếu so sánh
với bản văn Gioan chẳng hạn, chúng ta sẽ
thấy ý nghĩa:
Mc 6,1-6a và Gioan 7,14t
Câu 2: Người lên
tiếng giảng dạy trong Hội đường.
Nhiều người ngạc nhiên mà rằng: BỞi đâu
ông ấy được như thế? Và là gì vậy sự
khôn ngoan ban xuống cho ông?
Câu 14: Chúa Giêsu lên
đền thờ và giảng dạy. Người Do Thái
bỡ ngỡ mà rằng: làm sao ông ấy đã chẳng theo
học mà lại thông hay chữ nghĩa
Câu 3a: Ông ấy không
phải là bác thợ mộc, con bà Maria và anh em với
Giacôbê, Giosê, Giuđa, Simon đó sao? Các chị em của ông
không ở giữa chúng ta sao?
Câu 27: Nhưng ông
ấy, chúng ta đã biết tự đâu ra, còn Đức
Kitô khi Người đến, thì nào ai biết
được do lai của Người?
Câu 3b: Và họ
vấp phạm vì Người
Câu 28: Chúa Giêsu hô lên:
phải các ngươi biết Ta và rõ Ta từ đâu ra.
Thế mà nào có phải tự Ta, Ta đã đến đâu.
Nhưng Đấng đã sai Ta là Đấng chân thật,
các ngươi lại không biết Ngài.
Như vậy, nghe
lời giảng dạy, chứng kiến các phép lạ các
kỳ công của Chúa Giêsu... điều đó chưa
đủ. Người ta cần phải đạt đến
một tầm mức cao hơn: tầm mức của
đức tin vào Chúa Giêsu, Đấng Thiên sai cứu
độ.
So sánh với bản
văn Luca 4,16-21, cách miêu tả của Máccô rất ngắn
gọn. Chủ ý của thánh ký chỉ nhằm nêu lên sự
kiện cứng tin của người dân quê nhà. Họ
ngạc nhiên về những lời giảng giải kinh
thánh đầy sự khôn ngoan của Người; họ
nhắc đến quyền năng làm các phép lạ của
Người (c. 2). Song, họ không tin Người.
Ông ấy chẳng
phải là bác thợ mộc, con bà Maria và anh em với
Giacôbê, Giôse, Giuđa, Simon đó ư?Và các chị em của
ông lại không ở giữa chúng ta đây sao? Và họ vấp
phạm vì Người (c. 3)
Người quê nhà
của Chúa Giêsu quả thực biết rõ lý lịch của
Người. Họ quen biết anh em và chị em của
Người. Những chàng dân quê như Giacôbê, Giôsê, Giuđa
hay Simon, đâu có xa lạ gì với họ. Như vậy,
ông Giêsu này không thể là một nhân vật khác
thường. Và cũng chính vì thế mà Người
trở thành một thứ viên đá vấp phạm cho
họ: họ đã vấp phạm vì Người.
Thành ngữ
eskandalizonto en autô được Giáo hội sơ khai
sử dụng như thứ ngữ vựng chuyên môn ám
chỉ tới sự sa bẫy của đức tin (x. Mc
4,17). Sự kiện này trở nên một lời cảnh
giác cho Cộng đoàn tin Chúa: những ai nghĩ rằng
họ biết Chúa Giêsu, họ phải coi chừng và
duyệt xét lại đức tin của họ: có nhiều
trở ngại và nguy cơ trong lãnh vực đức tin.
Chúa Giêsu đã vay
mượn một châm ngôn quen thuộc để đáp
lời lại các người đồng hương
cứng tin "Ngôn sứ mà bị khinh thì chỉ có nơi
quê quán".
Trước hết
câu châm ngôn này có thể gợi nhắc đến một
thứ tâm lý xã hội: không ai nói tiên tri được trong
quê nhà mình cũng như không có lương y nào chữa
trị được những kẻ quen biết mình.
Lời châm ngôn nói lên một kinh nghiệm sống khá chua
chát. Các ngôn sứ của Thiên Chúa đã từng gặp
phải sự phản kháng bi đát nhất nơi quê
hương họ: "Ấy anh em ngươi và gia
đình cha ngươi, ngay chúng nó cũng đã phản
ngươi... Đừng tin chúng khi chúng nói ngon ngọt
với người. Phần tôi như con chiên dễ bảo
ngưòi ta dẫn tới lò sát sinh, tôi vần không biết
rằng chúng âm mưu hãm hại tôi". (Gr 11,18t).
Chúa Giêsu, vị ngôn
sứ sau cùng của Thiên Chúa cũng không thoát khỏi
số phận đó. Và đây cũng là ý nhắm thần
học của Máccô. Thái độ cứng tin của người
dân làng Nadarét trở thành lời loan báo mầu nhiệm
khổ nạn của Chúa Giêsu. Nó sẽ là cớ vấp
phạm cho những kẻ không tin song là dấu chỉ
cứu độ cho kẻ tin theo.
Từ đó số
phận ngôn sứ của Chúa Giêsu cũng vén mở cho chúng
ta ơn gọi của người môn đệ Chúa. Chúa
Giêsu đã thành lập một cộng đoàn mới,
một gia đình mới (x. Mc 3,35) vượt lên trên
tầm vóc "quê quán, bà con, gia đình" (c. 4b). Bởi
vậy, kẻ tin theo Chúa sẽ không để cho những
liên hệ hoặc những thảm trạng ở tầm
vóc tự nhiên tạo nguy cơ cho đức tin của
mình.
Do sự cứng tin,
Chúa Giêsu không thể làm các phép lạ... Nhưng tại sao
Người không thể tỏ bày quyền lực
trước một thái độ cứng tin? Thực ra
sự không thể liên kết với sự kiện
thiếu đức tin: Người ngạc nhiên thấy
họ cứng tin (c. 6a). Vì chưng, thánh ký Máccô không hề
muốn miêu tả một mối tương quan tâm lý,
như thể sự tin tưởng của bệnh nhân là
điều kiện của sự chữa trị thành công.
Nhãn quan thần học của Máccô nhằm đến
chủ đề đức tin.
Nếu thiếu
vắng đức tin, một phép lạ của
Đấng Thiên sai cứu độ sẽ mất hết
ý nghĩa cứu độ. Nó có nguy cơ dẫn tới
quan niệm lệch lạc về quyền lực của
Chúa Giêsu.
Ngược lại,
chỉ có đức tin mới mở mắt cho
người ta nhìn thấy quyền năng cứu
độ của Người ngang qua các lời nói hay
việc làm của Người.
Nguyện xin Chúa Giêsu ban thêm lòng tin cho con
người mỏng dòn yếu đuối của chúng ta
để chúng ta nhận ra quyền năng, tình
thương của Chúa ngày mỗi ngày trong cuộc
đời chúng ta. Và cũng xin Chúa mở lòng chúng ta
để chúng ta cao rao lòng tin, cao rao quyền năng Chúa cho
mọi người mà chúng ta chung sống, chúng ta gặp
gỡ.
|