Người lấy làm lạ vì
họ không tin.
(Suy niệm của
Lm. Phan Văn Lợi)
Trong thời gian rao
giảng Tin mừng ở Galilê, Đức Giêsu hẳn
đã có nhiều dịp trở về Nagiarét. Thế
nhưng các tác giả Nhất lãm (Mt 13,54-58; Lc 4,16tt; Mc 6,1-6)
đã chỉ ghi lại có một lần viếng thăm
này, có lẽ vì các ông cho rằng thái độ khinh
thường Đức Giêsu của đồng
hương trong lần viếng thăm ấy đã tiêu
biểu cho thái độ chối từ Người
của dân Israen (đồng bào Người) và thái
độ không tin Người đủ của bao kitô
hữu (đồng thân thể với Người).
1. Thái độ không tin
của đồng hương Đức Giêsu
Phần đầu
của cuộc viếng thăm này rất giống với
những gì Máccô kể ra ở 1,21 (biến cố tại
hội đường Caphácnaum): "Thiên hạ sửng
sốt về lời Đức Giêsu giảng dạy".
Nhưng phần kết lại khác hẳn. Ở đây,
"nơi quê quán Người", khán thính giả nghe mà
ngạc nhiên, nhưng rồi chẳng tin gì ráo! Do đâu
vậy? “Có thể là vì thời Đức Giêsu,
người Do thái có một niềm tin phổ biến cho
rằng Đấng Mêsia phải có một nguồn gốc
siêu phàm huyền nhiệm. Sau này, trong cuốn
"Đối thoại với Tryphon", thánh Giúttinô
(khoảng năm 150) sẽ làm vang vọng niềm tin này khi
ghi lại ý kiến sau đây của nhiều học
giả Do thái: "Nếu có kẻ nói rằng Đấng
Mêsia đã đến, thì người ta đâu biết ai.
Chỉ khi Người tỏ mình trong vinh quang, thiên hạ
mới nhận ra Người". Đó đúng là luận
điệu của dân làng Nagiarét, mà cũng là luận
điệu của dân thành Giêrusalem được Tin
mừng Gioan ghi lại: "Ông ấy, chúng ta biết
xuất thân từ đâu; còn Đấng Kitô, khi
Người đến thì chẳng ai biết Người
xuất thân từ đâu cả" (Ga 7,27), nghĩa là
chẳng ai biết rõ nguồn gốc của Người.
Đối với dân làng Nagiarét cũng thế, Đức
Giêsu không thể là Đấng Mêsia được, vì ai
nấy biết rõ tông tích họ hàng của
Người" (M.E. Boismard).
Thế nên, từ
chỗ là niềm hãnh diện, Đức Giêsu đã thành
một chướng ngại khiến đồng
hương của mình vấp ngã. Họ trở nên
điếc lác và mù quáng, do đó, đã không thể đón
nhận các ân huệ của Người, nhất là ân
huệ Tin mừng cứu rỗi. Thật ra, chẳng
phải là họ không có lòng tin. Hằng tuần họ
vẫn nhóm họp tại hội đường
để thờ phượng Đức Giavê, Tạo Hóa
và Chủ Tể lịch sử đấy chứ! Nhưng
lòng tin mà Đức Giêsu đòi không chỉ là lòng tin vào Thiên
Chúa như Môsê đã truyền dạy, mà còn là lòng tin vào
Người, Con Thiên Chúa hóa thân thành bác thợ mộc làng
Nagiarét. Hơn nữa, lòng tin Người đòi hỏi
chẳng phải là một mớ tín điều lề
luật, song là sự đảo lộn cuộc sống, là
bước theo Người trên đường thập
giá, đường yêu thương.
2. Thái độ không tin
của môn đồ Đức Giêsu
Phần chúng ta, khi
nghe được nhận xét ấy của Máccô
("Người lấy làm lạ vì họ không tin")
một nỗi sợ hãi có thể xâm chiếm chúng ta: tôi thì
thế nào? Sợ như thế là có phúc, vì chúng ta sẽ
chẳng bao giờ chú ý đủ tới tình trạng
của đức tin chúng ta, vì việc sống một cái
gì đó với Đức Giêsu hoàn toàn tùy thuộc sức
mạnh của niềm tin tưởng vào Người. Mà
đức tin là cái nhìn của chúng ta về Người,
sự hiệp thông giữa chúng ta với Người,
việc chúng ta nắm lấy Người, là phương
thế để yêu Người ngày càng hơn và chẳng
bao giờ "vì Người mà vấp ngã".
Điều đã
diễn ra tại Nagiarét có thể xảy tới với
chúng ta. Câu ngạn ngữ Người nhắc lại cho
đồng hương: "Ngôn sứ có bị rẻ rúng,
thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình"
cũng có thể nhắm chính các kitô hữu. Và đây là
trọng điểm của trình thuật.
· Có lẽ
Người ngạc nhiên về niềm tin của chúng ta,
về cách chúng ta tin Người. Để tin vào
Đức Giêsu, phải thường xuyên vượt quá
tri thức chúng ta có về Người lúc này đây.
Đối với chúng ta, Người chẳng phải là
bác thợ mộc làng Nagiarét, chúng ta đã chẳng sống
với Người trong ba mươi năm tuổi
trẻ của Người, các phản ứng của dân
làng Nagiarét đối với Người chẳng phải
là vấn đề của chúng ta. Nhưng có lẽ chúng ta
cũng đã sống với Người nhiều năm.
Chúng ta đã biết Đức Giêsu của cha mẹ chúng
ta, của cha xứ chúng ta, Đức Giêsu của cuốn
giáo lý, của một phong trào Công giáo, Đức Giêsu
của mọi sách báo ta đã đọc, thậm chí
của các sách chống Người và chống đạo
Người.
Thình lình, hay dần
dần, chúng ta gặp cơn khủng hoảng kiểu dân
làng Nagiarét. Đức Giêsu là ai đối với tôi khi tôi
đau khổ hay khi tôi thấy sự đau khổ? Khi
một tình yêu ngây ngất đem tôi xa khỏi Đấng
tôi từng nói với: Chúa là tất cả của con? Khi
một cuốn sách mạnh mẽ và gây bối rối làm
lung lay các xác tín của tôi? Khi một mục tử,
đại diện chính thức của Người, làm tôi
ngỡ ngàng, bởi lẽ thay vì hy sinh cho đoàn chiên,
vị ấy lại hy sinh đoàn chiên để xin xỏ
xun xoe với quyền lực?
Người vẫn
có thể là Đức Giêsu của đời tôi, nếu
tôi học biết Người cách khác. Phải chăng
Người đã quá ư là con người, hay quá ư là
Thiên Chúa đối với tôi? Mầu nhiệm một
kẻ vừa là người vừa là Chúa thật chẳng
dễ chấp nhận và cảm nghiệm. Lắm kiểu
không tin đã phát xuất từ cái mà thật ra là đá
tảng của Kitô giáo này. Thành thử chớ dừng
lại trong cuộc tìm kiếm của chúng ta. Đối
với mỗi người, có một Đức Giêsu vô danh
phải khám phá. Cơn khủng hoảng kiểu Nagiarét,
đó là do chúng ta có các ý tưởng quá xưa cũ về
Người. Phải học hỏi về Người
không ngừng qua Thánh Kinh, qua giáo lý, qua lời giảng
dạy của Giáo Hội, qua đời sống các kitô
hữu chứng nhân.
· Có lẽ
Người ngạc nhiên về cách chúng ta sống
đức tin vào Người. Để tin vào
Người, phải thường xuyên đổi mới
và cụ thể hóa cách sống đức tin chúng ta đang
có lúc này đây. Chúng ta tưởng mình biết
Người, coi Người là thành phần cuộc
sống chúng ta. So với những kẻ không tin thì chúng ta
cùng làng với Người, đã luôn gặp gỡ
Người. Sự thân mật với Người như
thế làm chúng ta tự mãn, tự cho mình đã chu toàn
bổn phận của một kẻ tin; hay ngược
lại, sự thân mật ấy khiến chúng ta thỉnh
thoảng mệt mỏi, việc đọc Tin mừng làm
chúng ta chán ngán.
Vì chúng ta đã
đọc cách đãng trí, uể oải, hay đọc mà
chẳng mấy khi đem ra thực hiện. Hãy gỡ mình
khỏi những cái nhìn lý thuyết về Đức Giêsu và
về Kitô giáo. Hãy luôn tự vấn về sức sống
của đức tin mình. Vì càng được đem
sống, lòng tin càng giúp ta hiểu rõ về Đức Giêsu;
và càng hiểu rõ, đức tin càng có nhiều sáng kiến
thực hành cụ thể đích thực. Người lúc
đó mới có thể là Đức Giêsu cho chúng ta. Nỗi
thất vọng của Người ở Nagiarét phải
động đến chúng ta thật sâu thẳm. Lạy
Chúa, con không muốn làm Ngài thất vọng đến
thế, thất vọng vì con chỉ biết tuyên xưng
Chúa trên môi, qua những bài giảng thật hùng hồn,
đang khi cuộc sống nơi con và quanh con chẳng
được biến đổi.
Germaine Cousin (1579-1601) là một thiếu
nữ quê mùa ở làng Pibrac, gần Toulouse, Pháp.
Mẹ mất sớm, cô phải lớn lên trong hoàn cảnh
bị cha ghét bỏ và dì ghẻ đối xử tàn
tệ. Do không muốn Germaine chung đụng với con
riêng của mình, bà bắt cô phải ngủ trong chuồng
vật hoặc dưới gầm cầu thang, lúc nào
cũng phải làm việc trong khi ăn uống rất kham
khổ. Ngay khi chín tuổi, Germaine đã phải đi
chăn cừu. Mặc những lao nhọc và bất công
như thế, cô vẫn luôn vui vẻ chấp nhận. Cô
cũng rất đạo đức và siêng năng tham
dự Thánh Lễ. Mỗi sáng nghe chuông đổ, dù đang
chăn cừu, cô cũng vội vã cắm cây gậy
xuống đất và chạy đến nhà thờ, phó thác
đàn cừu cho các thiên thần chăm sóc · Germaine quá nghèo
để có thể chia sẻ vật chất cho
người khác. Nhưng tình yêu tha nhân của cô luôn thể
hiện qua sự giúp đỡ bất cứ ai cần
đến cô, nhất là các trẻ em trong làng. Cô
thường dạy cho chúng biết kính sợ Chúa · Sự
thánh thiện của Germaine bắt đầu
được dân làng chú ý. Nhưng điều này cũng
chẳng thay đổi gì tình trạng của cô trong gia
đình. Cô vẫn hay bị trừng phạt vì chia sẻ
lương thực cho kẻ ăn xin. Có lần vào mùa
đông, vì nghi ngờ cô giấu miếng bánh trong vạt áo,
bà dì ghẻ đã giật ra nhưng chỉ thấy
những bông hoa mùa hè thật đẹp. Gia đình bắt
đầu nhận ra sự thánh thiện của cô và
mời cô vào sống ở trong nhà, nhưng Germaine xin
được tiếp tục cuộc sống như
trước. Năm cô 22 tuổi, người ta tìm thấy
cô nằm chết trên đống rơm dưới gầm
cầu thang. Cô được Đức Piô IX phong thánh
năm 1849 và đặt làm quan thầy các thiếu nữ
thôn quê.
|