HIỆP
SỐNG TIN MỪNG
CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN B
Ed 2,2-5; 2 Cr 12,7-10; Mc 6,1-6
PHẢI
TRÁNH ÓC THÀNH KIẾN ĐỂ ĐƯỢC ƠN CỨU
ĐỘ
I. HỌC LỜI
CHÚA
1.TIN MỪNG : Mc 6,1-6
(1)
Đức Giê-su ra khỏi đó, và đến nơi quê
quán của Người, có các môn đệ đi theo. (2)
Đến ngày Sa-bát, Người bắt đầu
giảng dạy trong hội đường. Nhiều
người nghe rất đỗi ngạc nhiên. Họ nói:
“Bởi đâu ông ta được như thế ? Ông ta
được khôn ngoan như vậy nghĩa là làm sao ? Ông
ta làm được những phép lạ như thế
nghĩa là gì ? (3) Ông ta không phải là bác thợ, con bà
Ma-ri-a, và anh em của các ông Gia-cô-bê, Gio-xê, Giu-đa và Si-mon
sao ? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm
với chúng ta sao ?” Và họ vấp ngã vì Người. (4)
Đức Giê-su bảo họ: “Ngôn sứ có bị rẻ
rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay
giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà
thôi”. (5) Người đã không thể làm được
phép lạ nào tại đó. Người chỉ đặt
tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. (6)
Người lấy làm lạ vì họ không tin.
2. Ý CHÍNH : Sau một thời gian đi khắp nơi rao
giảng Tin Mừng Nước Trời, Đức Giê-su
đã về thăm quê hương là làng Na-da-rét. Dân làng
ngạc nhiên trước lời giảng khôn ngoan và thán
phục trước các phép lạ Người làm ở
khắp nơi. Nhưng họ lại đặt nghi
vấn về thân thế dòng dõi của Người và không
tin Người có thể là Đấng Thiên Sai. vì họ
cứng lòng tin nên Đức Giê-su đã không làm nhiều
phép lạ tại đó.
3. CHÚ THÍCH :
-C 1-2 : + Đến nơi quê quán
của Người, có các môn đệ đi theo : Đức Giê-su trở về quê hương Na-da-rét
của Người (x. Mt 2,23). Làng này không mấy nổi
danh, như ông Na-tha-na-en đã nhận xét : “Từ Na-da-rét,
làm sao có cái gì hay được ?” (x. Ga 1,46). Đức
Giê-su về Na-da-rét để thăm thân nhân, và cũng
để thi hành sứ mạng rao giảng Tin Mừng
Nước Trời ở đó nữa. + Đến
ngày Sa-bát, Người bắt đầu giảng dạy
trong hội đường : Tại các hội
đường Do Thái, dân làng có thói quen tập trung vào ngày
Sa-bát để nghe các kinh sư đọc và giải thích
Kinh Thánh. Trong các buổi cầu nguyện này, người
ta cũng thường hay mời các kinh sư hay các bậc
vị vọng đến giảng dạy. Đức Giê-su
đã nổi tiếng khắp nơi nên cũng
được mời lên bục giảng. Dân làng ngạc
nhiên về giáo lý của Người, nhất là khi nghe
biết các phép lạ Người đã từng làm tại
thành Ca-phác-na-um gần đó.
-C 3 : + Là bác thợ : Nhưng rồi dân làng Na-da-rét lại
tỏ vẻ khinh thường nghề thợ mộc mà
Đức Giê-su đã học nơi cha nuôi là Giô-xép. + Con
bà Ma-ri-a : Họ không nhắc đến Giô-xép (hay
Giu-se), có lẽ vì ông đã qua đời từ lâu, mà
chỉ nhắc đến bà Ma-ri-a là một phụ nữ
bình thường. + Anh em của các ông Gia-cô-bê, Giô-xép,
Giu-đa và Si-mon sao ? Chị em của ông không phải là bà
con lối xóm với chúng ta sao ? : Anh chị em
được nêu tên ở đây chứng minh gia thế
Đức Giê-su không có gì đặc biệt. Tuy nhiên, có
người lại dựa vào câu này để phủ
nhận đức đồng trinh trọn đời
của Đức Ma-ri-a, vì theo họ: ngoài Đức Giê-su
ra, bà còn sinh thêm nhiều con trai con gái khác. Thực ra, anh
chị em nói đây chỉ là anh chị em bà con mà thôi (x. St
13,8; 14,16). Chẳng hạn: Gia-cô-bê và Giô-xép là con của bà
Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát (x. Mt 27,56; Ga 19,25), Giu-đa là con
của ông Gia-cô-bê (x. Lc 6,16). Ngay từ ban đầu, Giáo
Hội Công giáo luôn khẳng định: Đức Giê-su là
“con trai đầu lòng” (x. Lc 2,7) và
“Người con duy nhất” của Đức Ma-ri-a.
Cũng vì thế mà khi sắp tắt thở trên thập giá
Đức Giê-su đã trối Mẹ Người cho môn
đệ Gio-an, và từ giờ đó Gio-an đã đón bà
về nhà mà phụng dưỡng (x. Ga 19,27). Cuối cùng,
nếu những người này thực là con của
Đức Ma-ri-a, thì dân làng đã phải nói là “các em trai
của ông ta”, “các em gái của ông ta”, thay vì nói từ chung chung
“anh em ông” và “chị em ông”. + Và họ vấp ngã vì
Người : Theo Thánh Phao-lô và thánh Phê-rô thì:
Đối với những kẻ kiêu căng cứng lòng
tin, thì Đức Giê-su đã trở nên viên đá
chướng ngại (x Rm 9,33; 1 Pr 2,7-8). Tin Mừng Lu-ca
cũng viết “viên đá bị loại ra” là Đức
Giê-su, đã trở nên “viên đá góc”. Phàm ai ngã xuống
đá này, kẻ ấy sẽ tan xương; Đá này
rơi trúng ai, sẽ làm người ấy nát thịt” (Lc
20,18).
-C 4-6 : + “Ngôn sứ có bị rẻ
rúng…” : Câu này
tương tự như câu : “Bụt nhà không thiêng !”. Dân
làng Na-da-rét đã vấp ngã trước những yếu
tố nhân loại của Đức Giê-su như : Làm
nghề thợ mộc là nghề tay chân hèn kém. Các thân nhân của
Người cũng chỉ là người bình dân… Đó là các
chướng ngại khiến dân làng Na-da-rét không tin
Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai. + Người đã
không thể làm được phép lạ nào tại đó
: Trước khi làm một phép lạ nào, Đức
Giê-su luôn đòi người ta phải có đức tin.
Chẳng hạn: Người bảo bệnh nhân: “Này con,
lòng tin của con đã cứu chữa con” (Mc 5,34);
Người nói với ông Gia-ia: “Ông đừng sợ,
chỉ cần tin thôi” (Mc 5,36), hay nói với người mù
ở Giê-ri-cô: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu
anh !” (Mc 10,52). Tại làng Na-da-rét, vì không tin, nên dân làng đã
không được Đức Giê-su ban ơn là đã không làm
các phép lạ như ở những nơi khác.
4.CÂU HỎI : 1) Đức Giê-su về
thăm quê hương Na-da-rét nhằm mục đích gì ? 2)
Dân làng tập trung tại hội đường vào các ngày
Sa-bát để làm gì ? 3) Dân làng Na-da-rét đánh giá thế nào
về Đức Giê-su sau khi nghe Người giảng
dạy ? 4) Dân làng có thành kiến thế nào về nghề
thợ mộc và về các thân nhân tầm thường
của Đức Giê-su ? 5) Phải chăng Đức
Ma-ri-a đã không trọn đời đồng trinh, vì ngòai
Đức Giê-su, Tin Mừng hôm nay còn kể ra tên nhiều
anh em và chị em khác của Người ? 6) Dân làng Na-da-rét
đã dựa vào đâu để không tin Đức Giê-su là
Đấng Thiên Sai ? 7) Tại sao Đức Giê-su không làm
nhiều phép lạ tại Na-da-rét quê hương
Người ?
II. SỐNG LỜI
CHÚA
1. LỜI CHÚA: Họ nói: “Nào ông ta không
phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a sao ?” (Mc 6,3).
2. CÂU CHUYỆN :
1)
CẦN LOẠI BỎ ÓC THÀNH KIẾN VỀ NGƯỜI
KHÁC:
Vào
năm 1958, sau khi Đức Giáo Hoàng Piô XII qua đời, giới
truyền thông báo chí đã mô tả cái chết của ngài
như một ngôi sao sáng chói đã lịm tắt, vì ngài
xuất thân từ một gia đình quý tộc, hấp
thụ được một nền văn học uyên thâm
và đã để lại nhiều công trình lớn lao cho
Hội Thánh.
Cơ
Mật Viện đã bầu Tân Đức Giáo Hoàng Gioan
XXIII lên kế vị. Vị Giáo Hoàng này xuất thân từ
một gia đình nông dân nghèo, với hình dáng bên ngoài mập
mạp, quê mùa, chất phát. Người ta bảo nhau: Đây
chỉ là vị Giáo Hoàng chuyển tiếp cho một vị
Giáo Hoàng khác có tầm cỡ như vị tiền nhiệm.
Nhưng có ngờ đâu con người khiêm tốn, bình
dân, giản dị và vui tươi ấy lại có sức thu
hút mọi người. Nhất là ngài đã có công triệu
tập Cộng đồng Vatican II và ngài đã trở thành
một “siêu sao” thời đại, trổi vượt
hơn các vị giáo hoàng tiền nhiệm.
Câu chuyên trên cho thấy: Chúng ta đừng
đánh giá tha nhân theo thành kiến, như dân làng Na-da-rét xưa
đã đánh giá Đức Giê-su: “Na-da-rét nào có cái chi hay!”.
Thế mà Đức Giê-su làng Na-da-rét ấy lại chính là
Đấng Thiên Sai muôn dân trông đợi.
2) BỤT NHÀ KHÔNG THIÊNG:
TA-GO-RE (1861-1941), một đại thi
hào của Ấn Độ, đã đoạt giải No-bel
về văn chương năm 1913 Ông có tài làm thơ ngay
từ thuở niên thiếu. Khi ấy thỉnh thoảng Ta-go-re
đã làm được một bài thơ và gửi về
tòa soạn một tờ báo do thân phụ ông phụ trách
biên tập. Khi thấy bài thơ gửi đến có ký tên tác
giả là con của mình, ông bố chẳng thèm đọc một
dòng mà quẳng ngay vào sọt rác, vì ông cho rằng con ông
chỉ là một đứa trẻ thì biết gì về thi
ca !
Khi hiểu rõ lý do tại sao bài mình
gửi lại không được đăng lên báo, Ta-go-re
liền chép lại những bài thơ mà cậu đã
gửi về tòa soạn trước đó, nhưng
lần này cậu đã lấy một bút hiệu khác
rồi gửi trở lại toà soạn. Lần nầy,
thân phụ của Ta-go-re đọc và nhận thấy đây
là những bài thơ rất có giá trị, nên ông đã cho
đăng ngay lên báo mà không biết đó là những bài
thơ của cậu con trai mà trước đó ông đã
nhiều lần quẳng vào sọt rác.
Đúng như
người ta thường nói : "Bụt nhà không
thiêng", hay như lời Chúa Giê-su : "Ngôn sứ có
bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê
hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong
gia đình mình mà thôi" (Mc 6, 4).
3) TAI HẠI CỦA ÓC THÀNH KIẾN:
Có một gánh xiếc đi lưu
diễn tới vùng quê và đóng trại tại một khu
rừng gần một ngôi làng. Vào một buổi tối
trước giờ gánh xiếc trình diễn, bỗng
một ngọn lửa bùng lên tại một chiếc
lều chứa trang cụ của gánh xiếc. Ông giám
đốc vừa chỉ huy việc dập lửa vừa
sai một anh hề, lúc đó mới hóa trang chuẩn
bị cho buổi trình diễn, đi vào làng gần bên
để yêu cầu được giúp đỡ dập
lửa. Vì nếu ngọn
lửa cháy lan qua khu rừng thì ngôi làng cũng có nguy cơ
bị hỏa hoạn.
Anh
hề vội vã chạy nhanh vào làng. Anh đánh kẻng báo
động yêu cầu dân làng mau đến rạp xiếc giúp
dập lửa. Nhưng dân làng lại nghĩ đó là
một cách quảng cáo lôi kéo người đến xem xiếc.
Anh càng cố làm nói cho họ biết thực sự có
hỏa hoạn, thì họ lại càng cười và cho là anh
khéo diễn trò. Sau cùng lửa đã cháy lan nhanh đến
ngôi làng và thiêu rụi tất cả.
Lý do chính mà dân làng không tin lời
cảnh báo là do họ nghĩ người đưa tin
chỉ là một anh hề có nhiêm vụ chọc
cười của gánh xiếc, khiến họ không cần
biết sự thật anh hề muốn nói. Cũng có một
sự tương đồng giữa câu chuyện nói trên
với câu chuyện Đức Giêsu về thăm làng quê Na-da-rét
trong Tin Mừng. Dân làng tuy thán phục lời giảng của
Đức Giê-su, nhưng lại không tin Người là
Đấng Thiên Sai, vì tưởng đã biết rõ về
gia thế bình thường của Người.
4) CHINH PHỤC LÒNG NGƯỜI BẰNG
LÒNG BÁC ÁI
Vào
năm 1960, một cuộc bách hại đạo Công Giáo
bùng lên tại nước Su-đăng bên Phi Châu. Một
sinh viên Công giáo da đen tên là TA-BAN đã bỏ nhà chạy
sang nước láng giềng U-gan-đa lánh nạn. Trong
thời gian ở đây, Ta-ban đã được
nhận vào chủng viện và 7 năm sau, anh được
thụ phong linh mục. Khi tình hình ở Su Đăng
lắng dịu, tân linh mục Ta-ban quyết định
trở lại quê nhà để thi hành sứ vụ linh
mục của mình. Cha được Bề trên bổ
nhiệm coi sóc một giáo xứ vùng Pa-lo-ta-ka. Tuy nhiên, giáo
dân ở đây lại hoài nghi về chức linh mục
của cha như lời cha thuật lại: “Dân chúng
ngờ vực nhìn tôi và nói: “Này anh bạn da đen kia! Anh
nói cái gì vậy? Anh mà là Linh mục ư? Thật là khó tin!”.
Thực
ra trước đây, tại Su Đăng chưa bao
giờ xuất hiện một linh mục nào người
da đen cả. Giáo xứ luôn được các linh
mục thừa sai người da trắng đến
chăm sóc và đã chia sẻ cho họ nhiều thực
phẩm, quần áo và thuốc men. Còn bây giờ cha Ta-ban
lại là một người da đen nghèo khó giống
như họ, nên ngài không có gì phân phát như các linh mục
da trắng kia. Tình hình lại càng phức tạp thêm, khi cha
Ta-ban bắt đầu canh tân phụng vụ thánh lễ
theo đường hướng công đồng Va-ti-can II.
Giáo dân xầm xì với nhau: “Ông linh mục da đen này còn
bày đặt làm lễ bằng tiếng bản xứ thay
vì bằng tiếng la tinh. Chắc ông ta không rành tiếng la
tinh nên mới làm như vậy! Không biết ông ta là linh
mục thật hay giả?”. Phải mất 10 năm, sau bao
nhiêu vất vả phục vụ giáo xứ, chịu
đựng bao nhiêu sự miệt thị và những
lời dè bỉu khinh dể, cuối cùng cha Ta-ban mới
được giáo dân thừa nhận là Cha Sở của
họ.
3. THẢO LUẬN : Trong cuộc
sống, các tín hữu chúng ta cần ứng xử thế
nào trước thái độ khinh thường hay những
lời khích bác của những kẻ ác cảm với
đạo Công giáo?
4. SUY NIỆM :
1)"Ông ta không phải là bác
thợ sao?":
Đức Giê-su chỉ là bác thợ
mộc trong làng, sống bằng đôi tay lao động vất
vả giống như bao người khác. Rồi bà Ma-ri-a mẹ
Người và các anh chị em của Người cũng
là những láng giềng thân quen của dân làng. Những
điều này đã khiến dân làng vấp phạm, không
tin Đức Giê-su là một Ngôn Sứ, lại càng không tin
Người là Đấng Thiên Sai. Thời Giáo hội
sơ khai, cũng có một nhân vật tên là Xen-xút (Celsus) rất
thù ghét đạo, đã có lần chế diễu các Ki-tô
hữu như sau: “Giê-su Đấng sáng lập đạo
của các người chỉ là một gã thợ mộc
dốt nát bần hàn, xuất thân từ làng Na-da-rét tầm
thường! Thật khó mà chấp nhận được
một Đấng Cứu Thế lại xuất thân
từ một xưởng gỗ nhỏ bé, phải vất
vả kiếm sống bằng đôi bàn tay lao động
hằng ngày như thế !”
Chúng
ta thường nghĩ rằng: Thiên Chúa toàn năng có
thể làm được mọi sự. Nhưng Tin
Mừng hôm nay cho thấy Đức Giê-su là Con Thiên Chúa lại
phải chịu bó tay trước sự cứng lòng
của con người. Con người có thể dùng sự
tự do Chúa ban để từ chối ơn cứu
độ của Chúa, như dân làng Na-da-rét xưa do thành
kiến đã không tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai
và không thèm đón nhận ơn cứu độ do Người
mang lại.
2)
Người đã không thể làm được phép lạ
nào tại đó (Mc
6,5):
Phép lạ là món quà đặc
biệt Chúa ban cho loài người, nhưng người ta
chỉ có thể đón nhận được phép lạ khi
có đức tin. Biết bao điều lạ lùng Thiên Chúa
muốn thực hiện cho loài người nhưng họ đã
từ chối, giống như các chủ quán ở Be-lem
năm xưa đã xua đuổi Đấng Cứu
Thế giáng sinh ra khỏi nhà trọ của họ như
Tin Mừng đã ghi nhận: “Người đã đến
nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón
nhận” (Ga 1,11). Thực vậy: Đức Giê-su đến
mặc khải Thiên Chúa là Cha yêu thương và Người
là Con Thiên Chúa thì dân Do thái đã kết án Người là
kẻ phạm thượng, là kẻ bị quỷ ám và
điên khùng. Người đến đem bình an, chân lý và
thiết lập Nước Trời thì lại bị họ
tố là xách động quần chúng và kẻ cầm
đầu bọn phản loạn. Cuối cùng, các
đầu mục dân Do thái đã ra tay bắt bớ và lên án
tử hình cho Người, rồi họ còn làm áp lực
đòi Tổng Trấn Phi-la-tô phải kết án tử hình
thập giá cho Người.
Ngoài thành kiến thì sự
cứng lòng là nguyên nhân khiến người ta cố
chấp không muốn nhìn, không muốn nghe, không muốn tin…
như Tin Mừng nói về sự cứng lòng tin của dân
Do thái: “Thế là đối
với họ đã ứng nghiệm lời sấm của
ngôn sứ I-sai-a, rằng: Các ngươi có lắng tai nghe
cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng
chẳng thấy; vì lòng dân này đã ra chai đá: chúng đã
bịt tai nhắm mắt, kẻo mắt chúng thấy, tai
chúng nghe, và lòng hiểu được mà hoán cải, và
rồi Ta sẽ chữa chúng cho lành” (Mt 13,13-15).
3) Và họ vấp ngã vì Người:
Vì các người đồng hương biết
rõ về gia cảnh của Đức Giê-su: Người
chỉ là con bác thợ mộc Giu-se và mẹ và anh em bà con
của Người cũng đang chung sống giữa
họ. Do đầu óc thủ cựu đầy thành
kiến nên họ đã không nhận ra Thiên tính nơi Đức
Giê-su, dù họ có thán phục về tài ăn nói lưu loát
và về sự hiểu biết Kinh Thánh của
Người. Một số người trong bọn họ
cũng đã được chứng kiến nhiều phép
lạ Đức Giê-su đã làm ở thành Ca-phác-na-um và các
nơi khác để cứu chữa nhiều bệnh nhân, xua
trừ quỷ ám, phục sinh kẻ chết... Nhưng do
kiêu ngạo và cố chấp, dân làng Na-da-rét đã không tin Đức
Giê-su la Đấng Thiên Sai. Theo họ Đấng Thiên Sai
không thể có lối sống nghèo khó giản dị, không
thể có cha mẹ nghèo hèn như Đức Giê-su, nên
họ đã không tin Người. Chính thành kiến đã là một trở
ngại cho cuộc tiếp xúc giữa Đức Giêsu và
người đồng hương. Theo họ thì Đấng
Thiên Sai phải là một nhà lãnh đạo chính trị
lỗi lạ, tài ba, một vị tướng lãnh cầm
quân đánh giặc bách chiến bách thắng, hầu đưa
dân tộc Do Thái lên làm bá chủ hoàn cầu. Khi nhận ra
Đức Giêsu không thích hợp với với quan niệm
của họ về Đấng Thiên Sai như vậy, thì
họ đã không chấp nhận Người.
4) “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì
cũng chỉ là ở chính quê hương mình”:
Tiên tri hay ngôn sứ là
người được Thiên Chúa soi sáng và sai đến
nói cho người ta nhân danh Thiên Chúa, để truyền
đạt các mệnh lệnh của Ngài cho họ. Kết
quả là: “hoặc họ nghe, hoặc họ không nghe” (Ez 2,5).
Thậm chí, lắm khi họ còn đe dọa mạng
sống của các ngôn sứ, nhất là khi các ông tuyên
sấm cáo trách tội lỗi của tầng lớp vua
quan. Thánh Kinh đã ghi lại lời ngôn sứ Na-than tố
cáo tội ngoại tình, giết chồng, cướp
vợ của vua Đavít; hay ngôn sứ Elia, dám nói thẳng
với vua A-kháp việc ông vua này đã giết và chiếm
đoạt tài sản của Na-bót cách bất công... Kết
quả là các ngôn sứ đã bị người đời
hận thù giết hại. Hôm nay chính Đức Giê-su
cũng bị các người đồng hương
Na-da-rét chối bỏ vai trò của Người, nên
Người đã phải thốt lên: “Ngôn sứ có bị
rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương
mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình
mình mà thôi” (Mc 6,4). Dù
bị khinh thường, nhưng Đức Giê-su vẫn luôn
chu toàn sứ vụ như Tin Mừng thuật lại: “Người đã
đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành
họ”. Rồi
Người đi sang các làng khác mà rao giảng Tin Mừng.
Để có đức tin, chúng ta phải
biết mở rộng tâm hồn và phải tránh thái
độ thành kiến, thói xấu ganh tị là nguyên nhân cản
lối Chúa đi vào nhà linh hồn của ta. Nếu
để thành kiến và thói ganh tị lấn lướt,
chúng ta sẽ khó lòng nhìn thấy các ưu điểm và
khả năng của tha nhân. Nếu ta chỉ dựa trên
bằng cấp, sự nghiệp, chức quyền và gia
cảnh mà xét đoán hoặc đánh giá một người
là chúng ta đã để cho thành kiến điều
khiển ta. Thực ra, giá trị của lời nói hay việc
làm của một người không tuỳ thuộc vào họ
có bằng cấp cao, có sự nghiệp lớn, có gia
cảnh giàu có. Nếu ta mới chỉ nghe một vài
lời nói không hay, hoặc nhìn thấy một vài khuyết
điểm của một người để vội
đánh giá không tốt về họ, thì đó chẳng
phải là ta đã tỏ ra hẹp hòi và xét đoán hồ
đồ sao? Trong đạo, nếu ta chỉ nghe vị chủ
tế giảng không lọt tai, mà ta đã vội đánh giá
vị đó không tốt và bỏ đến nhà thờ, thì chẳng
phải là ta đã có lối ứng xử đầy tà tâm
và thành kiến đó sao?
5.LỜI CẦU :
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Chúa vốn là nhà giảng thuyết tài năng,
thế mà Chúa cũng đành chịu thất bại
trước sự cứng lòng tin của những người
đồng hương Na-da-rét. Nhiều lần chúng con
cũng phải bị thất bại khi bị anh em lương
dân từ chối không tin và có khi còn thốt ra những
lời xúc phạm đến Chúa và Hội Thánh… Xin ban cho
chúng con ơn kiên nhẫn chịu đựng những khó
khăn gặp phải trên đường rao giảng Tin
Mừng. Cho chúng con biết tạ ơn Chúa khi vui cũng
như lúc buồn, khi thành công cũng như lúc thất
bại. Xin cho chúng con biết không ngừng tạ ơn Chúa
vì biết rằng: “Thất bại là mẹ thành công”,
để noi gương Chúa khi xưa cũng đã
từng chịu thất bại trước sự cứng
tin của người đồng hương. Khi ấy
Chúa đã không nản lòng thối lui, mà kiên trì đi con
đường “qua đau khổ vào vinh quang” theo ý Chúa Cha, sẵn
sàng chấp nhận chịu chết và sống lại, hầu
ban ơn cứu độ cho loài người chúng con.
X. HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. -Đ. XIN
CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM
|