Làm phiền Thầy chi nữa!
(Suy niệm của
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)
Hai phép lạ lồng
vào nhau được Tin Mừng Mác-cô tường
thuật nêu lên một vấn nạn mà từ lâu nay tôi
vẫn lởn vởn trong đầu: tôi có thật sự
tin vào Chúa không, và thế nào là một niềm tin đích
thực vào Chúa?
Hai phép lạ
Đức Giêsu thực hiện rõ ràng là do lòng tin của các
nhân vật trong cuộc: Ông trưởng hội
đường Gia-i-a và người đàn bà bị
băng huyết đã mười hai năm chắc
chắn đã tin vào sức mạnh chữa lành của
Thầy Giêsu, khi họ đồng loạt khẩn
khoản nài xin Người thi thố quyền phép, tuy
với những cách thức rất khác nhau - một
người ‘sụp xuống dưới chân Người
và khẩn khoản nài xin’, trong khi người kia rón rén
‘đến phía sau Người để sờ vào áo
của Người’. Trong cả hai trường hợp
Đức Giêsu đều xác định: “Lòng tin của
con đã cứu chữa con... Chỉ cần
ông tin thôi”. Thế nhưng toàn bộ câu chuyện hình
như lại cho thấy một điều gì khác thâm sâu
hơn; Đức Giêsu đòi bất cứ niềm tin nào
đặt nơi Người, cho dầu tự nó đã là
rất vững chãi đi nữa, vẫn còn phải
được kèm theo một yếu tố không thể
thiếu, đó là phó thác cậy trông dứt khoát và không lay
chuyển! Người đàn bà có tin nhưng còn không dám, còn
rụt rè và run sợ… gia đình ông trưởng hội
đường tin đấy, nhưng còn ngại ngùng ‘làm
phiền Thầy chi nữa!’ Rõ ràng tín thác cậy trông đã
thiếu trong cả hai trường hợp.
Đối với
Đức Giêsu, tin vào quyền năng của Thiên Chúa mà
thôi là chưa đủ, nói cách khác, Người chờ
đợi nơi Kitô hữu của Tân Ước một thái
độ tin tưởng phó thác rất độc đáo,
không hề tìm thấy nơi bất cứ một tôn giáo
nào khác. Các Kitô hữu chúng ta đều biết, mục
đích chính Đức Giêsu đến trần gian chắc
chắn không nhằm biểu lộ quyền năng hùng
mạnh của Thiên Chúa. Để làm được
điều này Cựu Ước đã quá đủ; ‘Chúa
giơ tay biểu dương sức mạnh’ (Lc 1:51) qua không biết bao nhiêu là biến
cố oai hùng, nhất là các can thiệp khủng khiếp
trong biến cố Xuất Hành giải thoát dân riêng. Ngay
cả khi Người thực hiện các phép lạ vĩ đại, Người vẫn cho
thấy rằng biểu lộ quyền năng Thiên Chúa
chỉ là điều rất thứ yếu. Mục
tiêu chính của các phép lạ vẫn luôn là, như
Người không ngừng khảng định rằng
‘Thiên Chúa yêu thương trần gian’. Chính vì thế
mà, đối với người dàn bà rón rén ‘lách qua đám
đông, tiến đến phía sau Người, và sờ vào
áo của Người’, cho dầu lòng tin của bà có mạnh
thật đấy, ‘Tôi mà sờ được vào áo
Người thôi, là sẽ được cứu’, nhưng
Đức Giêsu vẫn muốn bà nhận ra: có một
‘năng lực tự nơi mình phát ra’ mà chưa ai từng
nhận biết, đó là tình yêu xót thương của Thiên
Chúa, một tình yêu phải mang đến cho bà tin
tưởng và bình an, chứ không phải e dè sợ hãi. “Con
hãy về bình an và khỏi hẳn
bệnh”. Cũng vậy trường hợp ông
trưởng hội đường (tương tự
như cô Mát-ta trong chương 11 Phúc Âm Gio-an); chắc
chắn ông đã tin vào quyền năng của Thiên Chúa,
nhưng ông vẫn có phần ngại ngùng rằng yêu cầu
của ông đi quá xa, “Con gái ông chết rồi, còn làm
phiền thầy chi nữa!” Ngại ngùng
đó chứng tỏ ông không hiểu gì về lòng nhân lành
thương xót của Đấng mà Đức Giêsu công
bố là ‘Cha anh em, Đấng ngự trên trời, lại
không ban những của tốt lành cho anh em sao?’
Người phải chấn an ông: “Ông đừng sợ,
chỉ cần tin thôi”, nhưng phải là niềm tin hoàn
toàn phò thác và tin tưởng sâu xa nhất.
Tin không
chút sợ hãi chắc chắn không phải là một
niềm tin bình thường. Niềm tin đó không chỉ dựa vào quyền
năng vô biên của Thiên Chúa, mà quan trọng hơn,
phải đặt trên tin tưởng vô hạn đặt
cơ sở trên chính sự nhân lành của Thiên Chúa tới
độ tín thác không chút e dè. Sự tin tưởng của
người lính vào tài bầy binh bố trận của
vị tướng cầm quân tài giỏi có thể là
rất vững chắc, nhưng không thể nào sánh
được với sự phó thác của em bé trong vòng tay
âu yếm của mẹ nó; một đàng là tin tưởng
đặt nền móng trên nắm bắt được
sức mạnh của quyền lực, đàng khác là phó
thác dựa trên cảm nghiệm được yêu
thương. Niềm tin Kitô hữu, kể từ thời
các Tông Đồ, không còn đặt nền tảng trên
biến cố oai hùng như Xuất Hành qua Biển
Đỏ, nhưng là trên cử hành Hiến Tế thập
giá. Vì thế niềm tin này, để
trưởng thành và vững chãi, sẽ không cần cầu
xin một dấu lạ (xem Mt 12:38), nhưng cần cảm
nghiệm được tình yêu của Đấng đã
‘chết cho người mình yêu’. Nói cách khác, ánh sáng đức tin Kitô
hữu không giãi sáng từ trí óc nhưng từ con tim (hãy ngắm nhìn bức ảnh ‘Lòng
Thương Xót Chúa’). Và do đó câu tuyên xưng đức
tin đúng đắn nhất của mọi Kitô hữu
sẽ không còn là ‘tôi tin kính một Thiên Chúa toàn năng!’ (I
believe in God almighty), nhưng phải là ‘Con tín thác nơi Chúa’
(Jesus, I trust in you), vì chỉ mình Người mới là
Đấng không những quyền phép, nhưng trên hết
là từ nhân.
Tôi thiết nghĩ
cốt lõi của phong trào ‘Lòng Thương Xót’ hệ
tại ở việc biến đổi thâm sâu trong
đức tin của mỗi Kitô hữu chúng ta.
Lạy Chúa Từ Nhân, như thánh nữ
Tê-rê-xa Hài Đồng, con xin Chúa cho con được
nếm cảm sự an bình thư thái ‘như bé thơ trong
vòng tay mẹ hiền’. Xin cho con một đức tin không
vương chút âu lo sợ hãi, bất chấp những
yếu hèn vô tận của con người mỏng dòn. Xin
cho con luôn biết chiêm ngắm Thập Giá như nguồn
cậy trông phó thác duy nhất đời con, bây giờ và
nhất là trong giờ lâm tử. Amen.
|