LIÊN
ĐỚI ĐỨC TIN
(Chúa
nhật XIII TN, năm B)
Liên
đới là sự ràng buộc lẫn
nhau về vấn đề gì đó, đặc
biệt là về trách nhiệm. Cái gì
cũng có sự liên đới, không
chỉ điều tốt lành mà cả sự
xấu xa cũng có tính liên đới
– chẳng hạn “liên đới tội
lỗi”. Trong Tông thư “Sollicitudo rei
Socialis” (nói về Mối Quan Tâm Xã
Hội), ngày 30-12-1987, Thánh Gioan Phaolô
II xác định: “Tất
cả chúng ta đều thực sự chịu
trách nhiệm
đối với tất cả mọi người”
(số 38).
Có
tội thì bị phạt, có công thì
được thưởng, cũng như có
khởi đầu thì có kết thúc,
có sinh thì có tử, có nguyên
nhân thì có kết quả hoặc hậu
quả – gọi là quy luật nhân quả.
Và còn nhiều dạng liên đới
mang hệ lụy khác nhau trong cuộc sống
– đời thường và tâm linh.
I.
DƯỠNG ĐỨC TIN
Là
Đấng giàu lòng thương xót
(Ep 2:4), Thiên Chúa luôn luôn chạnh
lòng trắc ẩn đối với người
khác, vì Ngài là tình yêu và
là Chúa của sự sống, Ngài chỉ
có những ước muốn thánh thiện,
và trao ban những gì tốt lành cho
mọi người: “Thiên
Chúa không làm ra cái chết, chẳng
vui gì khi sinh mạng tiêu vong”
(Kn 1:13). Tại sao? Câu trả lời có
ngay: “Vì
Ngài đã sáng tạo muôn loài
cho chúng hiện hữu, mọi loài thọ
tạo trên thế giới đều hữu
ích cho sinh linh, chẳng loài nào mang độc
chất huỷ hoại. Âm phủ không thống
trị địa cầu”
(Kn 1:14). Thật vậy, “đức công
chính trường sinh bất tử” (Kn
1:15). Thiên Chúa tạo dựng mọi thứ
tốt lành, “chẳng loài nào mang
độc chất huỷ hoại”, thế thì
độc hại ở đâu ra nếu không
bởi ác quỷ và ác nhân? Cụ
thể cứ nhìn vào môi trường
Việt Nam ngày nay thì biết rõ.
Thiên
Chúa tốt lành nên Ngài cũng
muốn chia sẻ những điều thiện hảo
cho chúng ta: “Thiên
Chúa đã sáng tạo con người
cho họ được trường tồn bất
diệt. Họ được Ngài dựng nên
làm hình ảnh của bản tính
Ngài”
(Kn 2:23). Tạo Vật và thụ tạo PHẢI
có sự liên đới với nhau. Người
ta tạo ra cái kia hay vật nọ, nhưng
không ai làm ra cái gì giống mình.
Vậy mà Thiên Chúa đã tạo
nên chúng ta giống hình ảnh Ngài,
và còn phú cho bản chất thiện
hảo: Nhân chi sơ tính bổn thiện.
Sinh ra ai cũng tốt lành, “nhưng chính
vì quỷ dữ ganh tị mà cái chết
đã xâm nhập thế gian” (Kn 2:24a),
và chắc chắn rằng “những ai về
phe nó đều phải nếm mùi cái
chết” (Kn 2:24b). Chúng ta đã lây
nhiễm điều xấu, càng sống lâu
càng tội nhiều, thế nên chúng
ta luôn được “cảnh báo”
bằng sự chết, vậy mà vẫn không
ai sợ. Phàm nhân quá bướng bỉnh
và ngang tàng. Chưa thấy quan tài
chưa đổ lệ, quả thật là thế!
Mặc
dù chúng ta ngang ngược hết nước
hết cái, Thiên Chúa vẫn yêu
thương và muốn chúng ta cải tà
quy chánh, sớm trở nên những người
thực sự tốt lành: “Hãy
hoàn thiện như Cha trên trời là
Đấng hoàn thiện”
(Mt 5:48). Thế nhưng chúng ta vẫn cố
chấp, ngang nhiên nghe lời xúi giục
của ba thù (xác thịt, thế gian, ma
quỷ) mà đi vào “con đường
đen” với vẻ hào nhoáng của
tội lỗi. Mỗi chúng ta đều là
“đại thù đệ nhất” của
chính mình. Đáng sợ nhất mà
cũng khó trị nhất! Vậy mà Thiên
Chúa vẫn xót thương, không nỡ
làm ngơ, nên Ngài lại sai Con Một
Giêsu nhập thể và chịu chết để
cứu độ chúng ta. Ôi, còn hạnh
phúc nào hơn nữa? Vì thế, chúng
ta phải “mở mắt đức tin” mà
nhận diện chính mình và thành
tâm thân thưa: “Lạy
Chúa, con xin tán dương Ngài, vì
đã thương cứu vớt, không để
quân thù đắc chí nhạo cười
con”
(Tv 30:2). Đừng bao giờ thất vọng, vì
Thiên Chúa đã hứa: “Núi
có dời có đổi, đồi có
chuyển có lay, tình nghĩa của Ta đối
với ngươi vẫn không thay đổi,
giao ước hoà bình của Ta cũng
chẳng chuyển lay, Đức Chúa là
Đấng thương xót ngươi phán
như vậy”
(Is 54:10).
Thánh
Vịnh gia đã cảm nghiệm tâm linh:
“Ngài
đã kéo chúng ta lên từ âm
phủ, tưởng đã xuống mồ mà
Ngài thương cứu sống”
(Tv 30:4). Và rồi không thể nín
thinh, Thánh Vịnh gia phải lên tiếng:
“Hỡi
những kẻ tín trung, hãy đàn ca
mừng Chúa, cảm tạ thánh danh Ngài”
(Tv 30:5). Không cảm tạ Ngài sao được,
vì Ngài quá tốt lành, vượt
ngoài tầm hiểu của phàm nhân
chúng ta: “Ngài
nổi giận, giận trong giây lát, nhưng
yêu thương, thương suốt cả đời.
Lệ có rơi khi màn đêm buông
xuống, hừng đông về đã vọng
tiếng hò reo”
(Tv 30:6). Đừng lý luận quanh co kẻo xa
rời Thiên Chúa, và chớ ngu đần
mà thử thách Ngài (x. Kn 1:3a).
Không
vì lòng thương xót của Thiên
Chúa thì chúng ta đừng hòng
nhận được chi cả. Vả lại,
chính Chúa Giêsu đã dạy chúng
ta tôn sùng Thánh Tâm Ngài van xin
Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.
Ngài đã “bật đèn xanh”,
thế nên chúng ta đừng cố chấp
và cũng đừng ngần ngại cầu
xin: “Lạy
Chúa, xin lắng nghe và xót thương
con, lạy Chúa, xin phù trì nâng đỡ”
(Tv 30:11). Khúc ai ca được Chúa đổi
thành vũ điệu hoan ca, và cởi áo
sô mà mặc cho chúng ta lễ phục
huy hoàng. Vì thế, chúng ta không
thể nín lặng mà không ca ngợi
Ngài: “Lạy
Chúa là Thiên Chúa con thờ, xin tạ
ơn Ngài mãi mãi ngàn thu”
(Tv 30:13), đồng thời loan truyền hồng
ân thương xót ấy cho mọi người
cùng nhận biết.
Với
kinh nghiệm bản thân từng trải, Thánh
Phaolô đưa ra lời khuyên: “Cũng
như anh em từng trổi vượt về mọi
mặt: về đức tin, lời giảng, sự
hiểu biết, lòng nhiệt thành trong mọi
lãnh vực, và về lòng bác ái
mà anh em đã học được nơi
chúng tôi, anh em cũng PHẢI TRỔI VƯỢT
VỀ LÒNG QUẢNG ĐẠI”
(2 Cr 8:7). Tốt về lĩnh vực này thì
cũng cần tốt về lĩnh vực kia. Có
“máu xấu” này cũng dễ
“nhiễm” thói hư khác. Mắc
bệnh này rồi sẽ dễ mắc bệnh
khác. Đó là dạng liên-đới-xấu.
Như một hệ lụy tất yếu, người
tốt lại càng thêm tốt, người
xấu lại càng thêm xấu. Cuộc sống
đã và đang cho thấy ai mê đắm
cái gì thì sẽ “chết” vì
chính cái đó. Sinh nghề, tử
nghiệp. Người ta cần có niềm đam
mê, nhưng nó có thể tốt hoặc
xấu là do chính mình.
Để
cứu vãn khỏi sự mê muội, không
gì hơn là phải tin theo Đức Giêsu
Kitô, Chúa chúng ta, Đấng đã
có lòng quảng đại vô cùng.
Thật vậy, Thánh Phaolô giải thích:
“Ngài
vốn giàu sang phú quý nhưng đã
tự ý trở nên nghèo khó vì
anh em, để lấy cái nghèo của
mình mà làm cho anh em trở nên giàu
có”
(2 Cr 8:9). Thật kỳ lạ!
Nói
cặn kẽ hơn, Thánh Phaolô cho biết:
“Vấn
đề không phải là bắt anh em sống
eo hẹp để cho người khác bớt
nghèo khổ. Điều cần thiết là
phải có sự đồng đều. Trong
hoàn cảnh hiện tại, anh em có được
dư giả là để giúp đỡ
những người đang lâm cảnh túng
thiếu, để rồi khi được dư
giả, họ cũng sẽ giúp đỡ anh
em, lúc anh em lâm cảnh túng thiếu.
Như thế, sẽ có sự đồng đều”
(2 Cr 8:13-14). Đó là chia sẻ, là
tương thân tương ái, là bác
ái, y như lời đã chép: “Kẻ
được nhiều thì không dư, mà
người được ít thì không
thiếu”
(2 Cr 8:15). Đó mới là yêu thương
thực sự, yêu thương triệt để,
không yêu thương bằng lời nói
suông mà bằng cả hành động.
Hành động mới đủ sức thuyết
phục và “nói” to hơn ngôn
ngữ. Thể hiện yêu thương để
nuôi dưỡng đức tin. Thiên Chúa
rất thực tế khi Ngài đặt vấn
đề: “Có
người nào trong anh em, khi con mình xin cái
bánh, mà lại cho nó hòn đá?”
(Mt 7:9). Câu hỏi của Chúa khiến chúng
ta “ái ngại” quá chừng!
II.
SỐNG ĐỨC TIN
Yêu
thương thì phải thực tế, không
thể nói suông, ngay cả đức tin
cũng cần cụ thể – đó là
sống đức tin. Chúa Giêsu thực tế
trong từng lời nói, cử chỉ và
hành động. Thánh sử Máccô
kể rất tỉ mỉ, rõ ràng, dễ
tưởng tượng ra các diễn biến
từng chi tiết: Một lần nọ, Đức
Giêsu xuống thuyền trở sang bờ bên
kia Biển Hồ. Một đám rất đông
tụ lại quanh Ngài. Chợt có một
ông trưởng hội đường tên
là Gia-ia đi tới. Vừa thấy Đức
Giêsu, ông ta sụp xuống dưới chân
Ngài và khẩn khoản nài xin: “Con
bé nhà tôi gần chết rồi. Xin
Ngài đến đặt tay lên cháu,
để nó được cứu thoát
và được sống”
(Mc 5:23). Chúa Giêsu đang vội, không
rảnh, nhưng Ngài không do dự, không
chần chừ, mà liền đi theo ông.
Thấy
vậy, đám đông chen lấn đi
theo xem sự thể ra sao. Trong đám đông
đó có một phụ nữ bị băng
huyết đã 12 năm, bao phen khổ sở
vì chạy thầy chạy thuốc đã
nhiều đến tán gia bại sản mà
vẫn tiền mất tật mang, lại còn
thêm nặng là khác. Nghe đồn về
Đức Giêsu rất kỳ lạ, bà cố
lách qua đám đông, tiến đến
phía sau Ngài, và sờ vào áo
của Ngài, vì bà tự nhủ: “Tôi
mà sờ được vào áo Ngài
thôi, là sẽ được cứu”
(Mc 5:28). Đức tin lớn quá! Và rồi
lạ lùng thay, máu cầm lại tức
khắc, và bà cảm thấy trong mình
đã được khỏi ngay chứng băng
huyết. Lúc đó, Đức Giêsu
thấy có một năng lực tự nơi
mình phát ra, Ngài liền quay lại
giữa đám đông mà hỏi: “Ai
đã sờ vào áo tôi?”
(Mc 5:30). Sức mạnh vô hình rất mạnh
mẽ. Phụ nữ kia có cách thể hiện
đức tin cũng rất lạ lùng và
mạnh mẽ.
Nghe
Thầy mình hỏi ai sờ vào áo
mình, chắc là các môn đệ
nghĩ Thầy mình quá lẩm cẩm và
ngây ngô hết sức, thảo nào họ
hỏi lại Ngài: “Thầy
coi, đám đông chen lấn Thầy như
thế mà Thầy còn hỏi: Ai đã
sờ vào tôi?”
(Mc 5:31). Hỏi thế thì… “bó
tay”. Thế nhưng Đức Giêsu vẫn
ngó quanh để nhìn người phụ
nữ đã làm điều đó
khiến bà này sợ phát run lên
vì biết cái gì đã xảy
đến cho mình. Biết không thể giấu
được, bà đến phủ phục
trước mặt Ngài và nói hết
sự thật. Ngài nhẹ nhàng nói
với bà: “Này
bà, LÒNG TIN của bà đã CỨU
CHỮA bà. Bà hãy về bình an và
khỏi hẳn bệnh”
(Mc 5:34). Mắc chứng nan y mà được
khỏi hẳn, thế thì còn gì bằng.
Bà ta sướng rơn, sướng y như
người về từ cõi chết vậy.
Chính ĐỨC TIN mới là điều
quan trọng!
Thật
vậy, Chúa Giêsu luôn đề cao đức
tin. Ngài không nói Ngài chữa lành
mà chính niềm tin của chúng ta khả
dĩ chữa lành chúng ta – cả tâm
bệnh và thể bệnh. Muốn cơ thể
mạnh thì phải nuôi dưỡng nó,
tinh thần cũng vậy, và đức tin
cũng thế. Có cố gắng nuôi dưỡng
đức tin thì chúng ta mới có đủ
sức mạnh để mà sống đức
tin.
Và
cũng ngay lúc đó, có mấy người
từ nhà ông trưởng hội đường
đến bảo: “Con
gái ông chết rồi, làm phiền
Thầy chi nữa?”
(Mc 5:35). Nghe vậy, Đức Giêsu liền trấn
an ông trưởng hội đường: “Ông
ĐỪNG SỢ, chỉ cần TIN thôi”
(Mc 5:36). Một lần nữa, Chúa Giêsu lại
nhấn mạnh về tầm quan trọng của
đức tin. Rồi Ngài không cho ai đi
theo mình trừ ông Phêrô, ông
Giacôbê và em ông này là ông
Gioan. Đến nhà ông trưởng hội
đường, Đức Giêsu thấy người
ta khóc lóc, kêu la ầm ĩ. Ngài
bước vào nhà và bảo họ:
“Sao
lại náo động và khóc lóc
như vậy? Đứa bé có chết
đâu, nó ngủ đấy!”
(Mc 5:39). Chết mà bảo ngủ. Lạ thế
nhỉ? Ông Giêsu này “tâm thần”
chắc! Thế nên người ta xầm xì
chế nhạo Ngài. Mà chẳng ai xa lạ,
chính thân nhân của Ngài cũng có
lần tìm bắt Ngài vì cho rằng
Ngài bị mất trí (Mc 3:21).
Mặc
kệ, ai nói gì thì nói, việc
Ngài thì Ngài làm. Lúc đó
Ngài bắt họ ra ngoài hết, rồi
dẫn cha mẹ đứa trẻ và những
kẻ cùng đi với Ngài vào nơi
nó đang nằm. Ngài cầm lấy tay nó
và nói: “Ta-li-tha
kum”,
nghĩa là: “Này
bé, Thầy truyền cho con: trỗi dậy đi!”
(Mc 5:41). Lập tức con bé đứng dậy
và đi lại được. Ai nấy đều
kinh ngạc sững sờ. Ai cũng câm như
hến, chẳng dám xì xầm chi nữa.
Đức Giêsu không trách họ mà
chỉ nghiêm cấm họ không được
để một ai biết việc ấy. Rồi
Ngài còn bảo người nhà cho con
bé ăn. Ôi, Thầy Giêsu rất thực
tế, rất cụ thể!
Lạy
Thiên Chúa, chúng con thật đắc
tội với Ngài về lối suy nghĩ
thiển cận hão huyền trong trí óc
nông cạn của chúng con. Cúi xin Ngài
thương xót mà đại lượng
ân xá, và thắp Lửa Tin Yêu
trong chúng con. Xin thương mở lòng trí
chúng con để chúng con cũng biết
sống thực tế như Ngài, sẵn sàng
hành động cụ thể theo Tôn Ý
Ngài, đồng thời cũng biết dứt
khoát khước từ những gì trái
với Tôn Ý Ngài. Chúng con cầu
xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô,
Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
TRẦM
THIÊN THU
|