HAI
CON NGƯỜI
(Lễ
Nhị Vị Tông Đồ Phêrô và
Phaolô)
HAI
CON NGƯỜI KHÁC ƯỚC MONG ĐỊNH
HƯỚNG
MỘT
MỤC ĐÍCH CÙNG LOAN BÁO TIN MỪNG
Mỗi
con người được sinh ra đều có
mục đích của Thiên Chúa. Có
những con người tưởng chừng vô
dụng theo con mắt người đời, nhưng
rồi có người đã chứng tỏ
tài năng xuất chúng, thành thiên
tài. Không ai “thừa” trong sự
tiền định của Thiên Chúa. Thánh
Vịnh gia đã thốt lên: “Tạng
phủ con, chính Ngài đã cấu tạo,
dệt tấm hình hài trong dạ mẫu
thân con. Tạ ơn Chúa đã dựng
nên con cách lạ lùng, công trình
Ngài xiết bao kỳ diệu Con mới là
bào thai, mắt Ngài đã thấy; mọi
ngày đời được dành sẵn
cho con đều thấy ghi trong sổ sách
Ngài, trước khi ngày đầu của
đời con khởi sự!”
(Tv 139:13-14, 16). Mỗi chúng ta cũng được
Thiên Chúa “lưu ý” như vậy.
Thời
Cựu Ước có những ngôn sứ
nổi bật như Isaia, Amốt, Giôna,…
Thời Tân Ước có những con người
đặc biệt như Phêrô và
Phaolô. Hai người được Thiên
Chúa kêu gọi khác nhau nhưng luôn
huớng về một mục đích duy nhất,
và hai ông trở thành hai cột trụ
vững bền chống đỡ Giáo Hội.
Thánh Phêrô được Chúa Giêsu
trao “chìa khóa Nước Trời”
với cương vị giáo hoàng tiên
khởi của Giáo Hội, còn Thánh
Phaolô được chọn làm Tông đồ
của Dân ngoại. Một người chèo,
một người chống, cùng nhau bát
cậy đưa Con Thuyền Giáo Hội bình
an tới Bến Hạnh Phúc.
Thánh
Ý Chúa kỳ diệu lắm (Tv 119:129),
nhiệm mầu lắm, chúng ta không thể
lý luận để hiểu thấu theo lý
lẽ của phàm nhân. Một ngư phủ
Simon cương trực, thẳng thắn thật
thà, nhưng cũng dứt khoát chối bỏ
Thầy mình ngay trong lúc cấp bách
nhất, thậm chí có lần còn bị
Chúa Giêsu nguyền rủa là Satan (Mt
16:23), nhưng một Phêrô hèn nhát
đó đã biến thành một Phêrô
can đảm và chịu đóng đinh
ngược vì Thầy Giêsu. Một Saolê
hung tàn và bạo ngược, quyết tâm
giết sạch những ai dám tuyên xưng
Đức Kitô là Con Thiên Chúa, thậm
chí còn chủ trì trong cuộc sát
hại Phó tế Stêphanô (Cv 7:58), nhưng
một Saolê độc ác đó đã
trở thành một Phaolô nhiệt thành
rao giảng về Đức Kitô chịu chết
và phục sinh. Thế cờ hoàn toàn
đảo ngược.
Chúa
Giêsu đã nói trước: “Người
ta sẽ nộp anh em, khiến anh em phải khốn
quẫn, và người ta sẽ giết anh em;
anh em sẽ bị mọi dân tộc thù
ghét vì danh Thầy”
(Mt 24:9), và chính Ngài đã bị
giết chết như Ngài tiên báo. Thế
nên người theo Chúa Giêsu cũng
phải chịu nhiều đau khổ, cách này
hoặc cách khác, chứ chẳng ai được
thảnh thơi an nhàn. Sách Công Vụ
cho biết thực tế đó: “Thời
kỳ ấy, vua Hêrôđê ra tay ngược
đãi một số người trong Hội
Thánh. Nhà vua đã cho chém đầu
ông Giacôbê là anh ông Gioan. Thấy
việc đó làm vừa lòng người
Do-thái, nhà vua lại cho bắt cả ông
Phêrô nữa. Bấy giờ đang là
tuần lễ Bánh Không Men. Bắt được
rồi, nhà vua truyền tống ngục và
giao cho bốn tốp lính canh gác, mỗi
tốp gồm bốn người, định sau
lễ Vượt Qua sẽ điệu ông ra
cho dân chúng. Đang khi ông Phêrô
bị giam giữ như thế, Hội Thánh
không ngừng dâng lên Thiên Chúa
lời cầu nguyện khẩn thiết cho ông”
(Cv 12:1-5). Mỗi thời có cách bách
hại khác nhau, càng ngày càng tinh
vi hơn. Tại sao người ta không bắt
bớ những người theo các ông tổ
của đạo khác mà chỉ ghét
các Kitô hữu? Điều đó chứng
tỏ rằng “tin Chúa là đúng”.
Các tôn giáo khác không thấy
công bố các phép lạ, chỉ thấy
có những lần Chúa Giêsu và Đức
Maria hiện ra với các tín nhân Công
giáo và được người ta minh
nhiên công nhận.
Thật
vậy, sách Công Vụ đã tường
thuật một phép lạ nhãn tiền cứu
thoát ông Phêrô: “Trong
đêm trước ngày bị vua Hêrôđê
đem ra xử, ông Phêrô ngủ giữa
hai người lính và bị khoá vào
hai cái xiềng. Trước cửa ngục lại
có lính canh. Bỗng thiên sứ của
Chúa đứng bên cạnh ông, ánh
sáng chói rực cả phòng giam. Thiên
sứ đập vào cạnh sườn ông
Phêrô, đánh thức ông và
bảo ông đi. Xiềng xích liền tuột
khỏi tay ông. Thiên sứ bảo ông
thắt lưng và xỏ dép. Ông làm
như vậy. Rồi thiên sứ lại bảo
ông khoác áo choàng vào và
đi theo thiên sứ. Ông liền theo ra mà
không biết việc thiên sứ làm đó
có thật hay không, cứ tưởng là
mình thấy một thị kiến”
(Cv 12:6-9). Chuyện xảy ra ngoạn mục tưởng
như chỉ có trong phim ảnh, viễn tưởng,
thế nhưng lại là chuyện có thật.
Chính ông Phêrô cũng không hề
biết mình tỉnh hay mơ nữa. Lạ quá
chừng luôn!
Diễn
tiến xảy ra kỳ lạ: Qua vọng canh thứ
nhất, rồi vọng canh thứ hai, thiên sứ
và ông Phêrô tới trước cửa
sắt thông ra phố. Cửa tự động
mở ra trước mặt hai người. Ra đến
ngoài, đi hết một đường phố,
bỗng nhiên thiên sứ bỏ ông mà
đi. Lúc ấy ông Phêrô mới
hoàn hồn: “Bây
giờ tôi biết thực sự là Chúa
đã sai thiên sứ của Người
đến, và Người đã cứu
tôi thoát khỏi tay vua Hêrôđê
và khỏi mọi điều dân Do-thái
mong muốn tôi phải chịu”
(Cv 12:11). Thực tế thật 100% chứ không
hề là chiêm bao hoặc mộng ảo. Kỳ
diệu quá! Quả thật, “đối
với Thiên Chúa, không có gì là
không thể làm được” (Lc
1:37).
Tiền
nhân dạy: “Ăn
cây nào rào cây nấy”.
Bài học đó cũng là quy luật
tất yếu ở đời. Về phương
diện tâm linh cũng không khác. Mỗi
chúng ta đều lãnh nhận Ơn Chúa
quá nhiều nhưng có lẽ ít khi
chúng ta biết tạ ơn. Hãy cố gắng
quyết tâm theo gương của Thánh
Vịnh gia: “Tôi
sẽ không ngừng chúc tụng Chúa,
câu hát mừng Người chẳng ngớt
trên môi. Linh hồn tôi hãnh diện
vì Chúa, xin các bạn nghèo nghe tôi
nói mà vui lên. Hãy cùng tôi
ngợi khen Đức Chúa, ta đồng thanh
tán tụng danh Người. Tôi đã
tìm kiếm Chúa, và Người đáp
lại, giải thoát cho khỏi mọi nỗi
kinh hoàng”
(Tv 34:2-5). Lời tạ ơn giản dị mà
đôi khi lại hóa khó!
Mặc
dù con người vô ơn, nhưng Thiên
Chúa vẫn luôn đại lượng và
thương xót. Riêng đối với
những người tin yêu Ngài, Ngài
không bao giờ làm ngơ: “Ai
nhìn lên Chúa sẽ vui tươi hớn
hở, không bao giờ bẽ mặt hổ
ngươi. Kẻ nghèo này kêu lên
và Chúa đã nhận lời, cứu
cho khỏi mọi cơn nguy khốn. Sứ thần
của Chúa đóng trại chung quanh để
giải thoát những ai kính sợ Người”
(Tv 34:6-8). Với kinh nghiệm sống tâm linh,
Thánh Vịnh gia chia sẻ và mời gọi:
“Hãy
nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy:
hạnh phúc thay kẻ ẩn náu bên
Người!”
(Tv 34:9). Đúng vậy, chàng thanh niên
nọ đã công nhận Chúa Giêsu
nhân lành nên muốn đi theo Ngài,
tiếc rằng anh ta lại tiếc của cải
mà bỏ đi (Mc 10:17-22; Mt 19:16-22; Lc 18:18-23),
rồi một thủ lãnh nọ cũng công
nhận Chúa Giêsu nhân lành (Lc
18:18-23; Mt 19:16-22; Mc 10:17-22), và Chúa Giêsu
xác định rằng “không có ai
nhân lành, trừ một mình Thiên
Chúa” (Lc 18:19).
Với
kinh nghiệm “xương máu” là
cú ngã ngựa chí tử, kinh nghiệm
độc nhất vô nhị, và đó
cũng là phép lạ nhãn tiền,
Thánh Phaolô đã thực sự trở
nên trưởng thành tâm linh nên
chân thành chia sẻ tâm sự: “Tôi
sắp phải đổ máu ra làm lễ
tế, đã đến giờ tôi phải
ra đi. Tôi đã đấu trong cuộc
thi đấu cao đẹp, đã chạy hết
chặng đường, đã giữ vững
niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn
đợi vòng hoa dành cho người công
chính; Chúa là vị Thẩm Phán
chí công sẽ trao phần thưởng đó
cho tôi trong Ngày Ấy, và không phải
chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả
những ai hết tình mong đợi Người
xuất hiện”
(2 Tm 4:6-8). Ước gì chúng ta cũng có
thể xác định được như
Thánh Phaolô, nhất là khi sắp từ
biệt cõi đời này!
Nói
được như vậy bởi vì Thánh
Phaolô luôn biết tín thác vào
Thiên Chúa: “Có
Chúa đứng bên cạnh, Người đã
ban sức mạnh cho tôi, để nhờ tôi
mà việc rao giảng được hoàn
thành, và tất cả các dân ngoại
được nghe biết Tin Mừng. Và tôi
đã thoát khỏi nanh vuốt sư tử.
Chúa sẽ còn cho tôi thoát khỏi
mọi hành vi hiểm độc, sẽ cứu
và đưa tôi vào vương quốc
của Người ở trên trời. Chúc
tụng Người vinh hiển đến muôn
thuở muôn đời. Amen”
(2 Tm 4:17-18). Các thư của Thánh Phaolô
là kho tàng quý giá về bí
quyết sống tâm linh, chúng ta thấy có
mọi trường hợp mà hằng ngày
chúng ta vẫn gặp. Thánh Phaolô giỏi
về kiến thức đời thường và
giỏi cả kiến thức tâm linh, đồng
thời cũng như một tâm lý gia dày
dạn kinh nghiệm tư vấn.
Người
ta nói rằng cuộc đời giống như
cuộc chiến, mà cuộc chiến này
cứ dai dẳng mãi, chẳng bao giờ ngừng.
Chính Thánh Phaolô cũng đã than
phiền về tính vô định của
mình: “Điều
tôi muốn thì tôi lại không làm,
điều tôi không muốn thì tôi
lại làm” (Rm
7:19). Phàm nhân là thế, chán thật!
Biết vậy không phải để bi quan,
yếm thế, hoặc buông xuôi, mà
phải không ngừng vượt lên chính
mình để có thể vác thập
giá bước theo Đức Giêsu Kitô.
Vấn đề là có muốn hay không,
chứ vác thập giá chắc chắn là
“oải” lắm, hiếm khi ngon trớn,
lúc thì kéo lê, lúc thì ngã
quỵ,… Mệt thí mồ luôn! Chúa
biết lắm, vì Ngài thấu
suốt mọi sự
(1
Sbn 28:9b;
Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb
15:2; G 28:27; Tv 139:2; Gr
10:12;
Cn
16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr
11:20; Gr 20:12; 1
Cr 2:10; 1
Cr 12:4-6; 1
Ga 3:20). Thiên Chúa toàn năng luôn
quan phòng và tiền định mọi thứ,
ngay cả từng sợi tóc trên đầu
mỗi người chúng ta cũng đã
được Ngài đếm cả rồi
(Mt 10:30). Thế thì lo làm gì cho mệt?
Thật
kỳ lạ, hai lão tướng Phêrô
và Phaolô đều đã biến
đổi nhờ đau khổ.
Thật vậy, chính đau khổ mới làm
cho người ta thành nhân, cả đời
thường và tâm linh. Đau khổ có
giá trị kỳ diệu, thế nên chính
Đức Kitô đã chịu đau khổ
tới tột cùng để làm gương
cho chúng ta. Ngài đau khổ để
chúng ta được hạnh phúc, ngài
chết để chúng ta được sống.
Để có thể chịu đau khổ,
người ta phải có niềm tin lớn
mạnh. Chính đức tin là “siêu
vũ khí” để chúng ta ngoan cường
chiến đấu: “Điều
làm cho chúng ta thắng được thế
gian là lòng tin của chúng ta”
(1 Ga 5:4).
Việc
tuyên tín của Thánh Phêrô được
đề cập trong trình thuật Mt 16:13-19 (≈
Mc 8:27-30; Lc 9:18-21). Chúa Giêsu muốn xác
định đức tin của ông để
giao trọng trách. Không chỉ vậy, Ngài
còn đòi hỏi lòng yêu mến
của ông phải chân thành, thế nên
đã ba lần hỏi ông có thực
sự yêu mến Ngài hay không (x. Ga
21:15-19). TIN và YÊU là hai “luật
buộc” để làm “cột trụ”
trong đời sống tâm linh của mọi
tín nhân – những người mang danh
là “có Đức Kitô” trong
mình.
Một
hôm, khi Đức Giêsu đến vùng
kế cận thành Xêdarê Philípphê,
Ngài hỏi các môn đệ: “Người
ta nói Con Người là ai?”.
Ngài hỏi cho vui thôi, chứ Ngài thừa
biết tất cả rồi. Vả lại, Ngài
hỏi là để họ tự xác định
niềm tin của chính mình – và
mỗi chúng ta cũng thế. Nghe Sư Phụ
hỏi vậy, họ cho biết: “Kẻ
thì nói là ông Gioan Tẩy Giả,
kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, có
người lại cho là ông Giêrêmia
hay một trong các vị ngôn sứ”.
Rồi
Ngài lại hỏi: “Còn
anh em, anh em bảo Thầy là ai?”.
Vốn dĩ trực tính, ông Simon Phêrô
thưa ngay: “Thầy
là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa
hằng sống”.
Và Ngài nói với ông: “Này
anh Simon con ông Giôna, anh thật là NGƯỜI
CÓ PHÚC, vì không phải phàm
nhân mặc khải cho anh điều ấy,
nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự
trên trời”.
Rồi Ngài nói với ông: “Anh
là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá,
trên tảng đá này, Thầy sẽ
xây Hội Thánh của Thầy, và
QUYỀN LỰC TỬ THẦN SẼ KHÔNG THẮNG
NỔI. Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá
Nước Trời: dưới đất, anh cầm
buộc điều gì, trên trời cũng
sẽ cầm buộc như vậy; dưới
đất, anh tháo cởi điều gì,
trên trời cũng sẽ tháo cởi như
vậy”.
Ngay lúc đó, lúc ông Phêrô
“nhận” chìa khóa Nước
Trời, cũng là lúc ông trở thành
Giáo hoàng tiên khởi của Giáo
Hội (nhưng không có Nhẫn Ngư Phủ,
cũng chẳng có Nghi Lễ Đăng Quang).
Đúng là ngư phủ Phêrô diễm
phúc thật. Nhưng đó là nhờ
Lòng Thương Xót của Thiên Chúa!
Lạy
Thiên Chúa uy linh và chính trực,
xin giúp chúng con luôn ngoan cường
chiến đấu bằng cả niềm tin yêu,
xin canh giữ kẻo chúng con ngã lòng,
nhất là khi chúng con gặp phải nỗi
đau điều khổ. Lạy nhị vị
thánh nhân Phêrô và Phaolô, xin
thương nguyện giúp cầu thay và
đồng hành với chúng con trong cuộc
chiến trần gian này, luôn sẵn sàng
tuốt gươm-đức-tin để bảo
vệ chân lý và công lý. Chúng
con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu,
Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
TRẦM
THIÊN THU
|