KỸ
NĂNG SỐNG
(Chúa
Nhật XI TN, năm B)
Sinh
ra làm người, ai cũng như ai – có
cái vốn “nhân chi sơ tính bổn
thiện”, còn mọi thứ đều
phải nhờ người khác, cụ thể
cha mẹ. Theo thời gian, dần dần người
ta học được nhiều điều khác,
từ những gì đơn giản nhất:
“Học
ĂN, học NÓI, học GÓI, học MỞ”.
Học
từ trường gia đình, rồi trường
học và trường đời. Tất cả
đều giúp tích lũy kinh nghiệm để
tự rút ra kỹ năng sống. Bản năng
sinh tồn ai cũng được thiên phú,
nhưng nó có thể trở nên tốt
hoặc xấu – tự ái hoặc nhịn
nhục, vấn đề là sống theo bản
năng nhưng có bản lĩnh hay không,
hơn nhau là thế: Bản Năng là BỘC
LỘ cơn nóng giận, Bản Lĩnh là
KIỀM CHẾ cơn nóng giận.
Cái
gì cũng phải học, học đến
chết chưa hết, và cái gì cũng
cần kỹ năng – đặc biệt là
sống cho nên người. Kỹ năng sống là
tập hợp các hành vi tích cực
và khả năng thích nghi để đối
phó hiệu quả với các nhu cầu và
thách thức trong cuộc sống hằng ngày.
Nói cách khác, đó là khả
năng tâm lý xã hội. Sống là
tập hợp các kỹ năng tiếp thu qua
giáo dục, qua việc trải nghiệm trực
tiếp hoặc gián tiếp, biết cách
xử lý các vấn đề một cách
khôn ngoan. Kỹ năng sống có chức
năng đem lại hạnh phúc và hỗ
trợ thành người tích cực, hữu
ích trước tiên cho chính mình,
sau là cho gia đình, xã hội và
Giáo Hội.
Có
các quan niệm khác nhau về kỹ năng
sống. Theo Tổ chức UNESCO (Tổ chức Giáo
dục, Khoa học và Văn hóa Liên
Hiệp Quốc), “Kỹ năng sống là
năng lực cá nhân có thể thực
hiện đầy đủ các chức năng
và tham gia vào cuộc sống hằng ngày”.
Theo WHO (Tổ chức Y Tế Thế Giới), “Kỹ
năng sống là khả năng thiết thực
mà con người cần để có sống
an toàn và khoẻ mạnh. Đó là
những kỹ năng mang tính tâm lý
xã hội và kỹ năng về giao tiếp
được vận dụng trong những tình
huống hằng ngày để tương tác
một cách hiệu quả với người
khác, đồng thời có thể giải
quyết hiệu quả các vấn đề,
các tình huống trong cuộc sống”.
Theo UNICEF (Quỹ Nhi Đồng Liên Hiệp
Quốc), “Kỹ năng sống bao gồm các
kỹ năng cốt lõi: Kỹ năng tự
nhận thức, kỹ năng giao tiếp, kỹ
năng xác định giá trị, kỹ
năng quyết định, kỹ năng kiên
định và kỹ năng đạt mục
đích”.
Những
câu chuyện “răn đời” mang
tính giáo dục luân lý khả dĩ
giúp người đọc có thêm kỹ
năng sống, và người ta gọi đó
là dụ ngôn hoặc ngụ ngôn. Dụ
ngôn cũng được gọi là ngụ
ngôn, hai danh từ này có nghĩa tương
đương nhưng cũng có nghĩa khác
nhau.
1.
Truyện Ngụ Ngôn (Anh: parable, fable; Pháp:
parabole, fable) là một câu chuyện ngắn,
đơn giản, bằng văn xuôi hoặc
văn vần, mang tính hoang đường,
truyền thuyết, hư cấu, “bịa”
ra như chuyện phiếm, nhưng vẫn có
bài học luân lý, mang tính giáo
dục, răn đời; các nhân vật
thường là vật hoặc con vật được
nhân cách hóa, các nhân vật
cũng có thể là người hoặc
thần linh.
2.
Truyện Dụ Ngôn (Anh: parable, Pháp:
parabole) cũng là một câu chuyện ngắn,
đơn giản, bằng văn xuôi, nhưng
khác là mang tính bí ẩn, mang tính
tục ngữ, đặc biệt là mang chiều
kích tâm linh. Chúa Giêsu dùng thể
loại này, tức là Ngài dùng
thể loại “dụ ngôn” chứ
không dùng “ngụ ngôn”.
Kinh
Thánh xác nhận: “Ngài
không nói gì với họ mà không
dùng dụ ngôn”
(Mt 13:34; Mc 4:34). Trong các Phúc Âm nhất
lãm có khoảng 35 dụ ngôn. Chúa
Giêsu sử dụng dụ ngôn để
minh họa chân lý, dùng hình ảnh
dưới thế nhưng mang ý nghĩa trên
trời. Ngài ưa dùng dụ ngôn, có
lẽ vì loại văn này độc đáo
và thú vị.
Một
lần nọ, các môn đệ cảm thấy
lạ nên hỏi Thầy Giêsu: “Sao
Thầy lại dùng dụ ngôn mà nói
với họ?”
(Mt 13:10). Ngài trả lời: “Bởi
vì anh em thì được ơn hiểu
biết các mầu nhiệm Nước Trời,
còn họ thì không. Ai đã có
thì được cho thêm, và sẽ có
dư thừa; còn ai không có thì
ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy
mất. Bởi thế, nếu Thầy dùng dụ
ngôn mà nói với họ, vì họ
nhìn mà không nhìn, nghe mà không
nghe không hiểu. Thế là đối với
họ đã ứng nghiệm lời sấm
của ngôn sứ I-sai-a: Các ngươi có
lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố
mắt nhìn cũng chẳng thấy; vì
lòng dân này đã ra chai đá:
chúng đã bịt tai nhắm mắt, kẻo
mắt chúng thấy, tai chúng nghe, và
lòng hiểu được mà hoán
cải, và rồi Ta sẽ chữa chúng
cho lành”
(Mt 13:11-15; x. Mc 4:10-12 và Lc 8:9-10). Cách trả
lời cũng rất lạ.
Nói
là nói vậy, nhưng khi chỉ có
Thầy trò với nhau, Ngài lại giải
thích hết cho các môn đệ hiểu.
Ngài nói rằng việc sử dụng các
dụ ngôn có hai mục đích: MẶC
KHẢI SỰ THẬT cho những người MUỐN
BIẾT và che giấu sự thật đối
với những người dửng dưng, không
quan tâm. Nhóm Pha-ri-sêu đã công
khai khước từ Đấng Mê-si-a và
phỉ báng Chúa Thánh Thần, nghĩa
là họ phạm loại tội nặng nhất
– không được tha ở đời
này và đời sau (Mt 12:22-32). Điều
đó ứng nghiệm lời ngôn sứ
I-sai-a nói về những người cứng
lòng, đui mù và câm điếc:
“Hãy
đi nói với dân này rằng: Cứ
nghe cho rõ nhưng đừng hiểu, cứ
nhìn thật kỹ nhưng đừng nhận
ra. Hãy làm cho lòng dân này ra đần
độn, cho tai nó điếc, cho mắt nó
mù; kẻo mắt nó thấy, tai nó
nghe và lòng nó hiểu, mà nó
trở lại và được chữa lành”
(Is 6:9-10). Đối với những người cố
chấp, dốt mà hợm hĩnh, ngu mà
chảnh chọe, người ta thường mỉa
mai rằng “thà nói với đầu
gối còn hơn”.
Hầu
như sau mỗi lần dùng dụ ngôn,
Chúa Giêsu thường nói: “Ai
có tai nghe thì nghe”
(Mc 4:9; Mc 4:23; Mc 7:16; Lc 8:8; Lc 14:35). Đó là
cách mời gọi lắng nghe dụ ngôn,
không chỉ nghe chuyện đời thường
mà là tìm kiếm sự thật của
Thiên Chúa. Ngài ban cho mỗi người
phần bằng nhau: HAI TAI và MỘT MIỆNG –
tức là phải biết NGHE nhiều hơn
NÓI. Ngoài ra còn hai mắt, hai chân,
hai tay, và chỉ một bộ óc –
nhìn nhiều, đi nhiều, làm nhiều,
nhưng phải suy nghĩ chín chắn chứ
không được mưu mô lươn
lẹo. Độc đáo lắm!
Từ
ngàn xưa, Thiên Chúa đã phán
hứa: “Từ
ngọn cây, từ ngọn hương bá
cao chót vót, Ta sẽ lấy, sẽ ngắt
một chồi non; chính Ta sẽ trồng nó
trên đỉnh núi cao vòi vọi. Ta sẽ
trồng nó trên núi cao của Ít-ra-en.
Nó sẽ trổ cành và kết trái
thành một cây hương bá huy hoàng.
Muông chim đến nương mình bên
nó, và ẩn thân dưới bóng
lá cành. Tất cả cây cối ngoài
đồng ruộng sẽ nhận biết chính
Ta là Đức Chúa. Ta hạ thấp cây
cao và nâng cao cây thấp, Ta làm cho
cây xanh tươi phải khô héo và
cây khô héo được xanh tươi.
Chính Ta là Đức Chúa, TA ĐÃ
PHÁN LÀ TA THỰC HIỆN”
(Ed 17:22-24). Trong đó có “hình
bóng” của dụ ngôn thời Tân
Ước mà Chúa Giêsu sử dụng
để nói về Nước Trời. Đó
là một lời hứa, nhưng là lời
hứa đang ứng nghiệm trong “Thời
Cánh Chung” – thời cuối cùng,
thời chúng ta đang sống.
Thật
hạnh phúc khi được Thiên Chúa
thề hứa, bởi vì lời hứa đó
chắc chắn ứng nghiệm và hiện
thực, chứ không như lời hứa của
phàm nhân – những kẻ mang họ
“hứa” và liên quan dòng máu
của lão Cuội già. Thánh Vịnh
gia đã tâm nguyện: “Thú
vị thay được TẠ ƠN Chúa, được
MỪNG HÁT danh Ngài, lạy Đấng Tối
Cao, được TUYÊN XƯNG tình thương
của Ngài từ buổi sớm, và lòng
thành tín của Ngài suốt canh khuya”
(Tv 92:2-3). Tạ ơn và xưng tụng Thiên
Chúa là trách nhiệm của mọi
phàm nhân, mệnh danh là “sinh vật
cao cấp” được Ngài tạo dựng
vì yêu quý và thương xót
một cách vô điều kiện.
Sử
dụng lối so sánh cụ thể và dễ
hiểu, Thánh Vịnh gia nói: “Người
công chính vươn lên tựa cây
dừa tươi tốt, lớn mạnh như
hương bá Li-băng được trồng
nơi nhà Chúa, mơn mởn giữa khuôn
viên đền thánh Chúa ta; già cỗi
rồi, vẫn sinh hoa kết quả, tràn đầy
nhựa sống, cành lá xanh rờn, để
loan truyền rằng: Chúa thực là ngay
thẳng, là núi đá cho tôi ẩn
náu, nơi Người chẳng có chút
bất công”
(Tv 92:13-16). Màu xanh thiên nhiên cho thấy
sức sống dồi dào của cảnh vật,
đó là nhờ bám rễ sâu vào
lòng đất để hút các dưỡng
chất; tương tự, con người sẽ
thanh thản và bình an phát triển nhờ
hồng ân Thiên Chúa, mãi mãi
không tàn úa, nếu biết bám
chặt vào Thiên Chúa.
Rất
thanh thản, Thánh Phaolô bộc bạch:
“Chúng
tôi luôn mạnh dạn, và chúng tôi
biết rằng: ở lại trong thân xác
này là lưu lạc xa Chúa, vì
chúng ta tiến bước NHỜ LÒNG TIN
chứ không phải NHỜ ĐƯỢC THẤY
CHÚA. Vậy, chúng tôi luôn mạnh
dạn, và điều chúng tôi thích
hơn, đó là lìa bỏ thân xác
để được ở bên Chúa”
(2 Cr 5:6-8). Đức tin thực sự rất
cần thiết, cần hơn việc “được
thấy Chúa”. Thế nhưng, nhiều
người vẫn “đua nhau” tìm
kiếm “sự lạ” ở nơi này
hoặc nơi kia, trong khi bí tích Thánh
Thể là phép lạ vĩ đại nhất,
hằng ngày vẫn xảy ra tại các
nhà thờ hoặc nhà nguyện ở khắp
nơi trên thế giới, thế thì còn
tìm điều gì lạ ở nơi nào?
Hiếu kỳ có khi cần thiết, nhưng
có khi lại hóa ra bất lợi!
Như
một cách xác định, Thánh Phaolô
cho biết thêm: “Nhưng,
dù còn ở trong thân xác hoặc
đã lìa bỏ thân xác, chúng
tôi chỉ có một tham vọng là LÀM
ĐẸP LÒNG NGƯỜI. Vì tất cả
chúng ta đều phải được đưa
ra ánh sáng, trước toà Đức
Kitô, để mỗi người lãnh nhận
những gì TƯƠNG XỨNG với các
việc TỐT hay XẤU đã làm, khi còn
ở trong thân xác”
(2 Cr 5:9-10). Đó là một dạng Nhân
– Quả. Thánh Ý Thiên Chúa có
lẽ không phức tạp như chúng ta
tưởng, bởi vì Ý Chúa là
bổn phận của chúng ta ngay trong thời
điểm hiện tại, dù chúng ta ở
nơi này hoặc nơi khác. Làm tròn
bổn phận và trách nhiệm của
mình là “thi hành Ý Chúa”,
là làm đẹp lòng Ngài. Đơn
giản mà lại không dễ thi hành
trọn vẹn!
Với
ngụ ý đề cập Nước Trời,
Chúa Giêsu sử dụng dụ ngôn “Hạt
Giống Tự Mọc Lên” trong trình
thuật Mc 4:26-34. Ngài cho biết: “Chuyện
Nước Thiên Chúa thì cũng tựa
như chuyện một người vãi hạt
giống xuống đất. Đêm hay ngày,
người ấy có ngủ hay thức, hạt
giống vẫn nẩy mầm và mọc lên,
bằng cách nào, người ấy không
biết. Đất tự động sinh ra hoa màu:
trước hết cây lúa mọc lên,
rồi trổ đòng đòng, và sau
cùng thành bông lúa nặng trĩu
hạt. Lúa vừa chín, người ấy
đem liềm hái ra gặt, vì đã
đến mùa”.
Cái mà chúng ta gọi là “tự
động” hoặc “tự nhiên”
thì thật ra chính là ý Chúa
quan phòng và tiền định. Không
ai thấy Nước Trời, nhưng Nước
Trời vẫn lớn dần trong mỗi chúng
ta và trong xã hội này. Đơn giản
và thực tế như chính phủ, chẳng
ai thấy chính phủ và chẳng ai là
chính phủ, nhưng chính phủ vẫn
tồn tại trong đất nước và
nhân dân.
Sau
khi nói chuyện dụ ngôn, Ngài đặt
vấn đề: “Chúng
ta ví Nước Thiên Chúa với cái
gì đây? Lấy dụ ngôn nào mà
hình dung được? Nước Thiên
Chúa giống như hạt cải, lúc gieo
xuống đất, nó là loại hạt
nhỏ nhất trên mặt đất. Nhưng
khi gieo rồi, nó mọc lên lớn hơn
mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê,
đến nỗi chim trời có thể làm
tổ dưới bóng”.
Ngài muốn dùng cách nói cụ
thể để ai cũng có thể hiểu,
tất nhiên còn tùy theo mức độ
NGHE và HIỂU của mỗi người –
nhưng phải hiểu đúng chứ không
được hiểu theo ý muốn của
mình để tự thỏa mãn.
Cách
đọc và hiểu ý Chúa qua Kinh
Thánh cũng dễ mà cũng khó. Thật
vậy, có lẽ dụ ngôn “Người
Gieo Giống” (Mt 13:18-23; Mc 4:13-20; Lc 8:11-15) là
dụ ngôn duy nhất được Chúa
Giêsu giải thích cặn kẽ, tỉ mỉ.
Để hiểu các dụ ngôn khác,
có thể lưu ý ba điều cần
thiết này:
1.
XÁC ĐỊNH TÂM LINH – Chúa Giêsu
thường giới thiệu một dụ ngôn
bằng cách nói “Nước Trời
ví như...” hoặc “giống như…”
(đề cập 7 lần trong chương 13, Phúc
Âm theo Thánh Mát-thêu). Trong dụ
ngôn “Người Pha-ri-sêu và Người
Thu Thuế”, Thánh sử Luca cho biết:
“Đức
Giêsu còn kể dụ ngôn sau đây
với một số người TỰ HÀO cho
mình là công chính mà KHINH CHÊ
người khác...”
(Lc 18:9).
2.
PHÂN ĐỊNH “CHÍNH – PHỤ”
– Nói cách khác, không phải
các chi tiết của dụ ngôn đều
có ý nghĩa sâu sắc. Một số
chi tiết chỉ làm cho câu chuyện thực
tế hơn. Chẳng hạn, theo cách giải
thích của Chúa Giêsu về dụ ngôn
“Người Gieo Giống”, Ngài không
bình luận về bốn loại đất
khác nhau. Chi tiết “bốn loại”
chỉ là chi tiết phụ đối với
toàn bộ dụ ngôn này.
3.
SO SÁNH KINH THÁNH – So sánh Kinh Thánh
với Kinh Thánh là quy luật chú giải
vô giá khi tìm hiểu các dụ
ngôn. Các dụ ngôn của Chúa
Giêsu không bao giờ mâu thuẫn với
Lời Chúa (Kinh Thánh), bởi vì Ngài
đã xác nhận: “Không
phải tôi tự mình nói ra, nhưng
là chính Chúa Cha, Đấng đã
sai tôi, truyền lệnh cho tôi phải nói
gì, tuyên bố gì”
(Ga 12:49). Các dụ ngôn minh họa giáo
lý, và các giáo huấn của Chúa
Giêsu luôn rõ ràng, mạch lạc,
chính xác.
Trong
sách Châm Ngôn, chúng ta thấy có
những điều tương tự. Thánh
vương Sa-lô-môn đã dùng tỷ
giảo cách (phương pháp so sánh)
để dạy về sự thật, đặc
biệt về tính tương đương
điển hình, sinh ra một “dụ ngôn
đơn giản”. Chẳng hạn: “Cơn
thịnh nộ của vua như tiếng gầm sư
tử, kẻ làm vua nổi giận là làm
hại chính mình”
(Cn 20:2). Tiếng gầm của sư tử được
“ví như” cơn giận của nhà
vua với mục đích là so sánh.
Cách so sánh là cách giúp người
ta dễ hiểu vấn đề nào đó.
Văn so sánh là đặc ngữ trong các
dụ ngôn – ngụ ngôn không có
dạng này.
Liên
quan kỹ năng sống, tác giả Dale
Carnegie (1888-1955) đã thẳng thắn đề
cập trong cuốn “Đắc Nhân Tâm”
(How to Win Friends and Influence People, năm 1936) về sự
thật phũ phàng này: “Any
fool can CRITICIZE, CONDEMN and COMPLAIN – and most fools do”
(Bất cứ kẻ ngu dốt nào cũng có
thể CHỈ TRÍCH, CHÊ TRÁCH và
CẰN NHẰN – và đa số những
kẻ ngu xuẩn đều làm như vậy).
Ba
mẫu tự C kỳ diệu: CRITICIZE,
CONDEMN,
COMPLAIN
– CHỈ
TRÍCH, CHÊ
TRÁCH, CẰN
NHẰN.
Lạy
Thiên Chúa là nguồn cội mọi sự,
xin ban cho chúng con trí thông minh để
hiểu và sự khôn ngoan để thực
hành các huấn lệnh Ngài đã
truyền ban qua các dụ ngôn, và xin
giúp chúng con can đảm biến đổi
theo Thánh Ý Ngài. Chúng con cầu
xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng
cứu độ nhân loại. Amen.
TRẦM
THIÊN THU
|