Chú giải
mục vụ của Jacques Hervieux
I.
Đức Giêsu và satan (3,22-30)
Giữa hai lần can thiệp đầy thù địch
của những người bà con với Ngài (3, 20-21 và
31-35) Maccô nói đến cuộc đấu khẩu giữa
Chúa Giêsu và đám luật sĩ kẻ thù “ra mặt” của
Ngài (c. 22a). Cuộc tấn công này quả là nghiêm trọng.
Các thủ lĩnh nhóm biệt phái đến từ
Giêrusalem, thành trì giáo quyền của Israel. Lời cáo
buộc của họ cũng thật nặng nề. Chúa
Giêsu không chỉ là một người bị bà con mình cho là
đồ điên (3,21); Ngài còn là tác nhân của ma quỷ!
Bêeldêbun là một trong những tên gọi của Satan, tên
gọi này được gán cho một thần linh của
dân ngoại là “Ông Hoàng Baal”. Chắc chắn các “nhà thông thái”
này không phủ nhận sự kiện Chúa Giêsu thực
hiện các cuộc trừ quỷ. Trong thế giới Do
Thái thời Chúa Giêsu, việc trừ quỷ khá phổ
biến và được mọi người chấp
nhận (Cv 19,13). Tuy nhiên, các nhà thông thái này lại tố cáo
Chúa Giêsu đã hành động như thế dựa trên
một năng lực siêu nhiên của chính Satan, chứ không
phải phát xuất từ Thiên Chúa (c. 22c).
Nghe lời vu khống này, Chúa Giêsu không thể nào
để yên. Đây là lần đầu tiên Ngài sử
dụng dụ ngôn như một hình thái văn
chương: Ngài dùng cách “so sánh” từ những hình ảnh
thường nhật để buộc họ suy nghĩ. Ngài
nêu ra hình ảnh thường nhật để buộc
họ suy nghĩ. Ngài nêu ra hình ảnh một gia đình chia
rẻ lẫn nhau: gia đình này chỉ có nước tàn
lụi (c. 24-25). Luận lý của Chúa Giêsu rất vững
vàng: Nếu Satan tự chống lại chính nó thì chắc
chắn nó sẽ tự tiêu diệt (c. 26). Từ đó Chúa
Giêsu khéo léo đưa ra thêm một dụ ngôn thứ hai
rất ngắn gọn (c. 27). Ngài chẳng cần phải
dài dòng giải thích câu đố được nêu ra. Chỉ
cần Ngài mô tả bằng hình ảnh là người nghe
đã xác nhận được, Đấng Mêsia đang
cướp bóc ngôi nhà của Satan, gã “lực sĩ”.
Muốn chiến thắng “nhân vật” tượng trưng
cho Thần Dữ này thì trước tiên Ngài phải cột
được hắn lại. Ngược với những
đánh giá của đám luật sĩ, nơi Chúa Giêsu,
Đấng Mêsia hiện đang tận diệt
“vương quốc của Satan”. Hãy nhớ lại
tiếng kêu la của lũ quỷ dữ vừa bị Chúa
Giêsu, Đấng Mêsia hiện đang tận diệt
“vương quốc của Satan”. Hãy nhớ lại
tiếng kêu la của lũ quỷ dữ vừa bị Chúa
Giêsu trục xuất ra khỏi các nạn nhân của chúng:
“Hỡi ông Giêsu Nadaret, ông muốn gì ở chúng tôi? Ông
đến để tiêu diệt chúng tôi sao?” (1,24). Rõ ràng
Chúa Giêsu không phải là người hỗ trợ mà chính là
Đấng nắm chủ quyền trên Satan.
Cuộc khẩu chiến kết thúc bằng lời Chúa
Giêsu cảnh cáo nghiêm khắc các đối thủ Ngài:
mọi tội lỗi của loài người đều có
thể được Thiên Chúa thứ tha ngoại trừ
một thứ tội. Điều này rất đáng cho
chúng ta suy nghĩ (c. 28-29). Lời tuyên bố long trọng và
khá mạnh bạo này của Chúa Giêsu khiến cho mọi
độc giả thuộc mọi thời đại
đều phải suy nghĩ. Người ta đã bình
phẩm nhiều về tội “phỉ báng Thánh Thần”,
thứ tội không thể nào được tha thứ này.
Đúng ra là thứ tội gì? Người ta liệt kê ra
những tội mà họ cho là “đáng chết”. Tuy nhiên
người ta vẫn không tìm ra những tội nào thực
sự được gọi là không thể tha thứ.
Muốn hiểu được ý Chúa Giêsu thì không nên tách
lời Ngài nói ra khỏi mạch văn, vì chính mạch
văn mang lại ý nghĩa cho lới ấy: “Chúa Giêsu nói
thế bởi vì bọn họ bảo rằng: “Ông ta đã
bị quỷ ô uế ám” (c. 30). Đám luật sĩ đã
dám gán cho Satan công việc do cần thiết thực
hiện. Maccô rất cẩnt hận chứng tỏ
rằng ngay từ lúc khở đầu sứ vụ, Chúa
Giêsu đã được Thánh Thần Thiên Chúa tấn phong.
Chính Giêsu chịu phép rửa và giúp Ngài hành động
để giải phóng loài người khỏi sự
dữ (1,9-12). Cho rằng lúc trừ quỷ Chúa Giêsu dựa
vào năng của ma quỷ tức là cố ý khép kín tâm
hồn không thèm đón nhận ơn tha thứ mà Chúa ban cho
tất cả mọi Người. Chỉ riêng tội
nghịch cần thiết này là không thể nào tha thứ
được.
Vào lúc Maccô ghi chép lại Tin Mừng này, các Kitô hữu
đang phải là bia hứng chịu bao lời cáo sai
lạc của đám dân Do Thái thù nghịch, đám
người này không chịu nhìn nhận Chúa Giêsu là
Đấng Mêsia chiến thắng lũ thần Dữ.
Dầu sao, mọi người đều phải chọn
lựa hoặc theo Chúa Giêsu hoặc theo Satan.
II. Gia
đình đích thực của Chúa Giêsu (3,31-35)
Cảnh này là đoạn cuối của tiến trình
khởi đầu từ 3,20-21. Bà con Chúa Giêsu toan tiến
tới giữ lấy Ngài. Lý do là vì Ngài bị đám
đông tràn ngập: “Ông ấy mất trí rồi!” (c. 21b).
Quả là cuộc xung đột không kết quả.
Giờ đây lại một cuộc xung đột nữa
(c. 31). Cũng vẫn như lần trước, Chúa Giêsu
đang giảng dạy (c. 32a). Người ta loan báo cho Chúa
Giệsu mẹ và anh em Ngài đột xuất ghé thăm (c.
32b). Maccô nhấn mạnh tới hai lần: thân quyến
Chúa Giêsu chờ “Ở ngoài”. Điều này đối
ngược với vòng người đang vây quanh nghe Chúa
giảng. Nếu ra khỏi nhà để gặphọ là
đồng nghĩa với sự tách lìa sứ vụ.
Chắc chắn đó là lý do tại sao Chúa Giêsu thốt ra
câu nói cứng cỏi như thế với mẹ ruột
Ngài (c. 33). Điều này hẳn làm chúng ta ngạc nhiê. Tuy
vậy Maccô thường hẳn chú tâm đến cái
rắc rối về mặt tâm lý. Người ta cũng
thắc mắc các “anh em” của Chúa Giêsu là ai, bởi vì theo
truyền thống thì Ngài là người con trai độc
nhất. Thực ra trong bối cảnh vùng Sêmit, từ
ngữ “anh em” còn dùng để chỉ bà con gần.
Điều mà Maccô nhấn mạnh ở đây chính là Chúa
Giêsu không hề đặt nặng quan hệ về huyết
thống. Trọng điểm của trình thuật sẽ
xác nhận rõ điều này. Ngài đảo mắt nhìn
tất cả những kẻ đang vây quanh (c. 34a).
Đối với Maccô, cái nhìn chăm chú này luôn báo hiệu
một thời khắc quan trọng sắp diễn ra (x.
3.5; 10,23; 11,11). Quả thế, Chúa Giêsu sắp đưa ra
một tuyên bố hệ trọng (c. 34b). Ngài không
định vị gia đình đích thực của Ngài
trong tương giao huyết nhục mà theo tiêu chuẩn
kẻ nào biết nghe theo lời Ngài. Ngài thẳng thắn
xác định điều đó: “Ai thi hành ý muốn
của Thiên Chúa, người đó là anh chị em tôi là
mẹ tôi” (c. 35).
Đây là một cách thức vừa rõ ràng vừa
đơn giản mà Maccô muốn trình bày cho các Kitô hữu
đương thời về Giáo Hội. Cuộc bách
hại của người La Mã đã đẩy nhiều
gia đình đến những cuộc phân ly đâu
đớn. Những kẻ trở lại đạo
thường bị bó buộc phải chọn lựa
hoặc là thân quyến hoặc là cộng đoàn Kitô
hữu. Maccô chứng tỏ cho họ thấy ngay chính Chúa
Giêsu cũng từng bị bó buộc phải đoạn
tuyệt trọn vẹn với thân quyến Ngài: Vì thế
các Kitô hữu cũng không thể đòi cho mình
được đặc quyền hơn Ngài. Như
thế trên con đường rao giảng của Chúa Giêsu,
Maccô đưa ra hai loại tương giao giữa Chúa
Giêsu và những kẻ đương thời của Ngài:
một số từ khước và một số đón
nhận Ngài.
Trước hết là những kẻ đối
nghịch với Chúa Giêsu, trong số này đám biệt phái
và luật sĩ là những người cay cú nhất.
Họ căm ghét Ngài đến mức dám phỉ báng
cả Chúa Thánh Linh khi rêu rao rằng Chúa Giêsu bị quỷ
ám (c. 30). Tuy nhiên đám bà con Chúa Giêsu cũng phạm
phải tội lỗi giống họ khi tuyên bố
rằng Chúa Giêsu bị mất trí rồi (c. 21). Người
ta tự hỏi Maccô có ý gì khi lồng sự can thiệp
dữ dằn của bà con thân thuộc Chúa Giêsu (c. 20-21 và
31-35) vào trước và sau cuộc tranh luận của Chúa
về Bêeldêbun (c. 22-30)? Hai cuộc can thiệp của bà con
Ngài tuy khác nhau nhưng dầu sao cũng có nhiều
điểm trùng hợp, đó là họ tỏ ra thù
nghịch với sứ vụ của Chúa Giêu. Đối
với Maccô, thân tộc Chúa Giêsu đã hành động
như một “gia đình tự phân rẽ” mà Ngài từng
nói đến trong cuộc xung đột với đám
luật sĩ (3,25). Như thế sự ráp nối hai
đoạn văn này lại sẽ cho chúng ta nhiều ý
nghĩa.
Đối ngược với loại người trên
là các môn đệ của Chúa Giêsu. Trước hết là
nhóm Mười Hai (3, 13-19), và rộng hơn là đám
quần chúng sẵn sàng đón nhận Tin Mừng từ
miệng Ngài rao giảng. Vào lúc đầu đám đông
chỉ “tụ lại” quanh Chúa Giêsu và theo Ngài về nhà (c.
21). Còn vào lúc cuối thì xem ra họ “nghiêm chỉnh” hơn
bởi vì đã biết “ngồi quanh” nghe Ngài giảng (c.
32a và 34a). Đối đầu với những kẻ “bên
ngoài’, cộng đoàn các môn đệ ngày càng gia tăng. Và
Chúa Giêsu cho biết kẻ thuộc về Ngài chính là kẻ
thực hành ý muốn của Thiên Chúa. Về sau, khi cùng tham
dự vào Lễ Hiện Xuống, các Kitô hữu sẽ
thực sự được gọi là “anh chị em”
của Chúa Giêsu, bởi vì họ đã thiết lập nên
một dòng dõi thiêng liêng, tức gia đình đích thực
của Chúa Giêsu trong cộng đoàn có tên là “Giáo Hội” (x.
Plm 1-2).
|