Giao Ước Tình Yêu
(Suy niệm của Huệ
Minh)
Nhớ lại trong lịch
sử cứu độ, thì các lễ hy sinh đền tội
là việc sát tế, hiến tế và lễ toàn thiêu
được dân dâng lên Thiên Chúa. Tất cả
các lễ dân dâng lên Thiên Chúa bằng máu chiên bò chỉ là lễ
phẩm chứ không thể nào xóa hết tội lỗi của
dân được.
Duy nhất
chỉ có sự hiến tế chính Con Một của Thiên
Chúa mới thật sự là lễ đẹp lòng Thiên Chúa.
Ta vẫn biết máu
chính là nguồn của sự sống. Nếu cơ thể
của ta thiếu máu hay máu của ta bị lỗi thì sự
sống trong ta sẽ yếu ớt hay sẽ không còn nữa.
Máu của
Đức Kitô hiến dâng trên thập giá dù chỉ một
lần là đủ cho tất cả công trình cứu độ. Thư gởi tín hữu Do thái viết
đã xác tín điều này: Người đã vào cung thánh
không phải với máu các con dê, con bò, nhưng với chính
máu của mình, Người vào chỉ một lần thôi, và
đã lãnh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn
cho chúng ta (Dt 9,12).
Ta còn nhớ của lễ
hy sinh mà Thiên Chúa đòi hỏi tổ phụ Abraham là hiến
dâng mạng sống chính con một của mình. Của lễ hiến dâng này không phải để
đền tội, nhưng để tỏ lòng tin tưởng,
lòng tín thác vào Thiên Chúa duy nhất mà ông tin nhận.
Đáp lại
lòng tin vào Thiên Chúa, ông Abraham đã tuyệt đối vâng lời
và phó thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Ông Abraham lấy củi
dùng để đốt lễ toàn thiêu đặt lên vai
Ixaác, con ông. Ông cầm lửa và dao trong tay,
rồi cả hai cùng đi (St 22, 6).
Có lẽ,
lòng tin của Abraham là một lòng tin hết sức đặc
biệt. Đến
ngày giờ đã được chỉ định, ông và
con trai lên đường dâng tiến lễ hy sinh cho Thiên
Chúa. Của lễ dâng chính là đứa con trai duy nhất.
Ông đã không từ khước đứa con thừa tự
yêu quí. Abraham đã dám hy sinh sát tế con của mình. Tới
nơi Thiên Chúa đã chỉ, ông Abraham dựng bàn thờ tại
đó, xếp củi lên, trói Ixaác con ông lại, và đặt
lên bàn thờ, trên đống củi. Rồi ông Abraham
đưa tay ra cầm lấy dao để
sát tế con mình (St 22, 9-10).
Không còn
gì để thử thách lòng tin quá chân thành của ông, Thiên
Chúa đã tha chết cho đứa con yêu. Đứng trước
lòng tin như vậy, Thiên Chúa đã chọn ông làm tổ phụ
của tất cả những kẻ tin.
Nhìn lại những lễ
nghi của người Do-thái, các Thượng Tế và Thầy
Cả đại diện dân giết các con vật làm lễ
hiến dâng để đền tội. Vì
giá máu là giá của mạng sống. Mạng sống của
các con vật được dùng để thế mạng
sống cho con người. Sách Lêvi đã dậy rằng: Vì
mạng sống của xác thịt thì ở trong máu, và Ta, Ta
đã ban máu cho các ngươi, trên bàn thờ, để cử
hành lễ xá tội cho mạng sống các ngươi. Thật vậy, máu xá tội được vì nó
là mạng sống (Lv 17, 11).
Thật thế, ta thấy
máu là của lễ hiến tế tinh tuyền, nên sách Đệ
Nhị Luật dạy rằng không nên ăn tiết cùng với
thịt con vật: Tuy nhiên, anh em phải nhất quyết
không ăn tiết, vì máu là mạng sống, và anh em không
được ăn mạng sống cùng với thịt
(Đnl 12, 23).
Và rồi,
ta thấy máu là biểu tượng của sự cứu
độ và hy sinh.
Trong ngày
Lễ Vượt Qua, Thiên Chúa đã cứu dân Do-thái khỏi
làm nô lệ cho người Ai-cập. Môisen đã ra lệnh cho mỗi gia
đình chuẩn bị một con chiên tinh tuyền để
sát tế. Máu của chiên sẽ được
bôi lên cửa để làm dấu. Phải nhốt nó
cho tới ngày mười bốn tháng này, rồi toàn thể
đại hội cộng đồng Ít-ra-en đem sát tế
vào lúc xế chiều, lấy máu bôi lên khung cửa những
nhà có ăn thịt chiên (Xh 12,6-7).
Dấu
chỉ của sự cứu thoát chính là máu được
bôi trên các khung cửa.
Khung cửa nhà nào có dấu vết máu, thiên thần của
Chúa sẽ vượt qua và không sát hại con trai đầu
lòng. Còn vết máu trên nhà các ngươi sẽ
là dấu hiệu cho biết có các ngươi ở đó.
Thấy máu, Ta sẽ vượt qua, và các ngươi sẽ
không bị tai ương tiêu diệt khi
Ta giáng họa trên đất Ai Cập (Xh 12, 13). Máu vượt qua là giao ước Chúa đã lập
để đánh dấu sự giải thoát.
Ta nhớ lại hành
trình trong hoang địa cũng như khi đã về miền
Đất hứa, dân Do Thái tiếp tục tưởng nhớ
ngày Thiên Chúa đã đoái thương cứu họ khỏi
thân phận nô lệ.
Để ghi nhớ
ngày được giải thoát, dân đã cử hành nghi thức
giết chiên và lấy máu rẩy trên dân chúng để thanh
tẩy được truyền lại từ đời
này tới đời kia:Bấy giờ,
ông Môsê lấy máu rảy lên dân và nói: "Đây là máu giao
ước Đức Chúa đã lập với anh em, dựa
trên những lời này."(Xh 24, 8).
Và rồi
đến thời Chúa Giêsu, các thầy thượng tế
vẫn tiếp tục nghi thức giết chiên bò làm hy lễ
đền tội. Họ buôn bán chiên bò, đổi chác tiền bạc
ngay nơi tiền đình. Họ đã lạm dụng
đánh đổi giá cả và làm ô uế nơi cầu nguyện:
Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất
cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền
Thờ; còn tiền của những người đổi
bạc, Người đổ tung ra, và
lật nhào bàn ghế của họ (Ga 2, 15).
Ta vẫn thấy tiếp
nối truyền thống của dân Do-thái, Chúa Giêsu đã lập
giao ước mới qua chính máu của Ngài. Chúa không dùng máu
chiên bò để hiến tế mà dùng máu thịt của
chính mình làm của ăn, của uống và là lễ hy tế
đền tội cho nhân loại: Đức Giêsu nói với
họ: "Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông
không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không
có sự sống nơi mình (Ga 6,53).
Và, Chúa Giêsu còn hứa
ban cho những ai ăn và uống Máu của Ngài sẽ có sự
sống đời đời: Ai ăn thịt và uống
máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ
cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì
thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của
uống (Ga. 6,54-55).
Làm thế
nào Chúa Giêsu có thể lấy thịt máu mình mà nuôi dưỡng
mọi người. Chúa Giêsu đã chọn cách thế tuyệt hảo
nhất là dùng bánh và rượu hiến dâng và thánh hiến
trở thành Máu và Thịt của Ngài.
Ắt hẳn chúng ta
không thể nào quên được rằng Chúa Giêsu chính là
Con Thiên Chúa nhập thể.
Trong bữa cuối
cùng với các môn đệ, chính Chúa Giêsu đã mời gọi
các môn đệ hãy làm việc này mà nhớ đến Chúa:
Rồi Người cầm lấy chén, dâng lời tạ
ơn, trao cho môn đệ và nói: "Tất cả anh em hãy
uống chén này, vì đây là máu Thầy, máu Giao Ước,
đổ ra cho muôn người được tha tội
(Mt 26,27-28).
Máu Châu Báu của Chúa
không chỉ nuôi dưỡng linh hồn và thần trí của
chúng ta, mà còn có hiệu lực tha tội và ban ơn cứu
độ. Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Êphêsô
đã viết: Trong Thánh Tử, nhờ máu Thánh Tử đổ
ra chúng ta được cứu chuộc, được thứ
tha tội lỗi theo lượng ân sủng rất phong phú
của Người (Ep 1,7).
Trong giây
phút cầu nguyện trước khi chịu nạn, Chúa
Giêsu đã van xin cùng Chúa Cha rằng nếu Cha muốn thì Cha
có quyền và có thể cất chén này. Nhưng Chúa Giêsu hoàn toàn vâng theo thánh ý Chúa Cha. Ngài đã lãnh chịu tất
cả hình khổ để đi trọn con đường
cứu rỗi. Người lại đi cầu nguyện
lần thứ hai và nói: "Lạy Cha, nếu con cứ phải
uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha."(Mt 26, 42).
Tuyệt
đỉnh của lễ đền tội là Chúa Giêsu
đã hiến chính mạng sống mình trên thánh giá. Chúa đã đổ đến
giọt máu cuối cùng để hòan tất hy lễ hiến
dâng.
Chúa Giêsu hiến mình
chịu chết giang tay trên thập giá
để đền tội cho nhân loại. Chúa
đã hòa giải và nối kết giữa trời và đất.
Chúng ta biết tội nguyên tổ đã đánh mất nguồn
ân sủng siêu nhiên và biến mọi
người thành tội nhân. Chính nhờ máu Châu Báu của
Chúa giao hòa giúp chúng ta trở nên con cái của Thiên Chúa. Thật
vậy, cũng như vì một người duy nhất
đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội
nhân, thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời
Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người
công chính (Rm 5, 19).
Sự
hòa giải này phải trả bằng giá máu.
Ta thấy, không ai có
thể thay thế của lễ hy sinh đền tội
này. Duy chỉ có Con Thiên Chúa nhập thể
đền thay tội lỗi của nhân loại.Cũng
như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật
được hoà giải với mình. Nhờ máu
Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã
đem lại bình an cho mọi loài dưới
đất và muôn vật trên trời (Cl 1, 20).
Thư gửi Do Thái
đã so sánh rằng máu dê bò rẩy trên mình có thể thánh hóa
con người nên trong sạch: Vậy nếu máu các con dê,
con bò, nếu nước tro của xác bò cái, đem rảy
lên mình những kẻ nhiễm uế còn thánh hoá được
họ, nghĩa là cho thân xác họ trở nên trong sạch
(Dt 9,13).
Vậy Máu Thánh của
Chúa Giêsu đã đổ ra trên thập giá có hiệu lực
tuyệt đối, sẽ xóa sạch mọi lỗi lầm
và ban cho chúng ta có sự sống đời đời: Thì
máu của Đức Kitô càng hiệu lực hơn biết
mấy. Nhờ Thánh Thần hằng hữu
thúc đẩy, Đức Kitô đã tự hiến tế
như lễ vật vẹn toàn dâng lên Thiên Chúa. Máu của Người thanh tẩy lương tâm
chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết,
để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa hằng
sống (Dt 9, 14).
Thư gửi tín hữu
Do-thái đã tóm tắt tất cả hiệu qủa của
lễ toàn thiêu và hiến tế, duy chỉ có hy lễ của
Chúa Kitô đem lại ơn cứu độ muôn đời:
Thật thế, máu các con bò, con dê không thể nào xoá
được tội lỗi. Vì vậy, khi vào trần
gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến
tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá
tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên
Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài,
như Sách Thánh đã chép về con (Dt 10, 4-7).
Một
giao ước tình yêu, một giao ước cứu độ
được chính Chúa Giêsu thiết lập để cứu
độ con người, để đem con người
hư mất về cho Thiên Chúa.
Từ ngày ta lãnh nhận
bí tích Thanh Tẩy, ta được ghi dấu ấn của
tình yêu Ba Ngôi trên cuộc đời ta và đặc biệt
khi ta được đón nhận Mình và Máu của Chúa vào
trong đời ta qua bí tích Thánh Thể. Ước gì dòng máu
của Chúa Giêsu - dòng máu của yêu thương đi vào
trong cuộc đời ta để ta ngày mỗi ngày kết
hiệp mật thiết với Chúa hơn và sống trọn
vẹn giao ước tình yêu với Chúa và với anh chị
em đồng loại hơn.
|