Chuẩn bị
tiệc Vượt Qua và khai mạc Giao Ước
(Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Phụng
vụ hôm nay đưa chúng ta đến bữa ăn cuối cùng Đức Giêsu chia sẻ với
các môn đệ. Đây là một trong nhiều sự cố
đã xảy ra kể từ khi Đức Giêsu đến
Giêrusalem (x. 11,1). Tuy nhiên, bữa ăn này
có một giá trị đặc biệt, vì đây là một
bữa tiệc Vượt Qua, trong đó Đức Giêsu sẽ
ký kết giao ước mới trước khi đi vào cuộc
Thương Khó.
2.- Bố cục
Bản
văn có thể chia thành hai phần:
1) Chuẩn bị tiệc Vượt
Qua (14,12-16);
2) Khai mạc giao ước (14,22-26).
3.- Vài điểm chú giải
-
Ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, là ngày sát tế
chiên Vượt Qua (12):
Theo truyền thống Kinh Thánh, lễ Vượt Qua (Pesach)
được cử hành vào chiều ngày 14 Nisan (“Nisan” là
tháng thứ nhất của năm) và chính ngày lễ là 15
Nisan, còn lễ Bánh Không Men (lễ Matzoth), kéo dài thành bảy
ngày, lại bắt đầu vào đúng ngày 15 Nisan. Vì hai
đại lễ này quá gần nhau, chẳng mấy chốc
lễ Bánh Không Men đã được gọi là lễ
Vượt Qua, và kéo dài trong bảy ngày và bắt đầu
với đêm lễ Vượt Qua, và phụng vụ
cũng gọi đêm lễ Vượt Qua ấy là “lễ
Bánh Không Men”. Chiên và bánh không men là lương
thực biểu tượng của lễ mùa xuân. Cả
hai thứ này nói lên sự tái sinh và đời sống mới[1].
Truyền
thống kinh sư quy định việc sát tế chiên bắt
đầu sau khi đã dâng hy lễ chiều ngày vọng,
nghĩa là vào khoảng 14g30, tức trước khi ngày thứ
nhất bắt đầu vào lúc mặt trời lặn. Nếu
lễ Vượt Qua rơi vào ngày thứ bảy, thì bắt
đầu sát tế chiên sớm hơn 1 giờ. Nhưng
tác giả Mc quan tâm đến độc giả gốc ngoại
giáo, ông cho bắt đầu ngày bằng ban sáng (14,17: “chiều đến”, các ngài dùng bữa),
“ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men”, tức là
đúng ngay ngày 15 Nisan.
Nhận
định tổng hợp là: Bản văn Mc xác định
Bữa Tiệc cuối cùng chính là bữa tiệc Vượt
Qua, tức đúng ngày 15 Nisan; các tác giả Nhất Lãm khác
cũng theo thời gian biểu của Mc. Còn Ga 19,14 lại đặt cái chết của Đức
Giêsu vào chiều ngày 14 Nisan và như thế làm cho bữa
ăn tối cuối cùng trở thành một bữa ăn
tiền-Vượt Qua. Thời gian biểu của
Gioan có lẽ đúng hơn, bởi vì khó mà cho rằng các
thượng tế và các kinh sư lại hành động
như ta đã biết vào ngày thứ nhất của lễ
Vượt Qua. Khi biến bữa Ăn tối cuối
cùng thành một bữa tiệc Vượt Qua, tác giả Mc
nhắm kéo cái chết của Đức Giêsu vào gần
hơn nữa với các đề tài lớn của lễ
Vượt Qua là hiến tế và giải phóng.
-
dọn cho Thầy ăn lễ (12): Có nhiều việc phải làm: tìm
một nơi thích hợp, giết chiên, chuẩn bị bánh
không men, sắm các đồ dùng vào bữa tiệc. Các dân
cư Giêrusalem rất sẵn sàng giúp cho các khách hành
hương có chỗ mà ăn lễ. Nhưng ở đây, tác giả Mc không muốn nói
tới điểm này, ngài muốn nêu ra một chuyện lạ
lùng.
-
một người mang vò nước (13): Các môn đệ được cho
một dấu chỉ để có thể chu toàn nhiệm vụ,
nhưng đây lại là một dấu chỉ của đời
thường: một người mang vò nước thì ta có
thể gặp bất cứ lúc nào trong Giêrusalem. Tuy nhiên dấu chỉ này cho hiểu rằng hành
trình đưa Đức Giêsu đến cuộc
Thương Khó được tiên liệu đến từng
chi tiết.
-
một phòng rộng rãi trên lầu (15): Khi cử hành lễ Vượt
Qua, ít ra có khoảng mười người họp lại
với nhau, nên sách Mishna quy định là phải có một
không gian 10x10 “khuỷu tay” (tức khoảng 23m2). Khi ăn
tiệc, người ta nằm dài để diễn tả
là dân chúng đã ra khỏi kiếp nô lệ Ai Cập và
đã được tự do; ngay cả người nghèo
nhất cũng ăn tiệc Vượt Qua trong tư thế
này.
-
dâng lời chúc tụng (22): Với cách hành động này, ta có
thể nói đây là bữa tiệc Vượt Qua hay bữa
tiệc bằng hữu cũng được. Trong bữa
tiệc Vượt Qua, phải có trước tiên lời
chúc tụng về ngày lễ, rồi chén rượu đầu
tiên, các món khai vị là rau đắng và trái cây, suy niệm
về lễ Vượt Qua, rồi chén rượu thứ
hai. Phần chính của bữa ăn bắt
đầu với lời chúc tụng trên bánh không men. “Cầm lấy, dâng lời chúc tụng, bẻ ra”
là những từ ngữ chuyên môn của lời kinh người
Do Thái đọc trước khi ăn. Rất có thể
người Do Thái nghĩ rằng miếng bánh được
trao cho họ, do ông chủ bẻ ra từ tấm bánh lớn,
đưa lại phúc lành cho mình.
-
đây là mình Thầy… Đây là máu Thầy (22.24): Vì từ ngữ “mình” (sôma) là một
từ nói quanh để chỉ bản thân con người,
câu này có thể diễn lại là: “Đây là chính Thầy”.
Những ai ăn tiệc thì được
hiệp thông cách mới mẻ với Đức Giêsu. Dựa vào c. 24 nói về chén rượu, ta hiểu
là đây là sự hiệp thông với Đấng đang
đi tới cái chết. Từ ngữ sôma, vì ở trong thế song
đối với “máu đổ ra”, có nghĩa là thân thể
dâng làm hy lễ.
-
Và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ
ơn (23): Trong tiệc
Vượt Qua, giữa lời chúc tụng trên bánh và lời
chúc tụng trên rượu, có việc ăn
thịt chiên. Theo sách nghi thức, đây là chén
rượu thứ ba. Ta lưu ý là tác giả Mc đã
chuyển đi từ “dâng lời chúc tụng (eulogein)” sang
“dâng lời tạ ơn (eucharistein)”, trong khi trong bữa tiệc
Do Thái, cả hai lần đều là “lời
chúc tụng”. Có thể công thức này đã
được chọn vì người ta đã nghĩ tới
kết thúc bữa ăn. Nhưng rất
có thể tác giả muốn gợi tới bữa tiệc
Thánh Thể (eucharistia).
-
tất cả đều uống (23): Chi tiết này đến quá sớm,
vì sau đó Đức Giêsu còn giải thích ý nghĩa của
rượu. Trong một ngữ cảnh rộng hơn, từ
“tất cả” đây nhìn tới trước tình cảnh
“tất cả” sẽ vấp ngã (14,27.50).
Việc tham dự vào bữa tiệc không giữ
cho người ta khỏi vấp ngã vào giờ quyết
định.
-
máu giao ước, đổ ra vì muôn
người (24): “Máu giao
ước” nhắc đến Xh 24,8. Trong đoạn
văn này, sau khi dân đã cam kết giữ luật và sau hy
lễ, Môsê rảy máu các tế vật lên dân và nói: “Đây
là máu giao ước Đức Chúa đã lập với anh
em, dựa trên những lời này”. Ngay sau đó ông dùng một
bữa tiệc huynh đệ với các vị kỳ mục
của dân (Xh 24,11). Nhờ
cái chết của Đức Giêsu, một giao ước mới
được thiết lập, thay thế giao ước
thứ nhất. Máu Đức Giêsu đi
vào thế đối lập tiên trưng với máu giao
ước cũ. Theo Dcr 9,11, các tù
nhân được phóng thích “nhờ máu của giao ước
này”. Việc khai trương giao ước
đưa lại sự cứu chuộc và cứu độ.
“Máu đổ ra” đồng nghĩa với “bị giết”,
bởi vì theo một quan niệm của
Kinh Thánh, máu được coi là mang sự sống và sức
sống. Từ đó ta hiểu rằng chén
được dâng đảm bảo có sự hiệp thông
với Chúa, Đấng hiến mình trong cái chết.
“Đổ ra”, ekchêô, được dùng thường xuyên
để nói về máu con vật được đổ
ra (Lv 4,7.18.25.30.34…) và việc rưới
rượu (Is 57,6).
Câu
“đổ ra vì muôn người” (dịch sát là “đổ
ra vì nhiều người”) nhắc đến Is 53,12 và đưa lại cho hành vi một chiều
kích hy tế. Hai đoạn văn Cựu
Ước này được dùng để diễn tả
cái chết của Đức Giêsu như là một hy lễ
vì những người khác. Cụm từ hyper pollôn,
“vì nhiều người”, dựa trên kiểu nói Sê-mít đặc
biệt của Is 53,12 (rab), có nghĩa là
“tất cả” / đoàn người đông đảo”, chứ
không chỉ là “một số người”; đây là toàn thể
thế giới ngoại giáo (x. Người Tôi Trung
được gọi là “ánh sáng cho các dân” [x. Is 42,6; 49,7t]). Như vậy, “nhiều” đây
không đối lập với “tất cả”, nhưng có
nghĩa là “tất cả là nhiều”[2].
-
chẳng bao giờ Thầy còn uống …
trong Nước Thiên Chúa
(25): Câu kết thúc này đặt Bữa Tiệc Ly trong khung
cảnh là bữa tiệc thiên sai (x. 6,35-44; 8,1-10). Thay vì coi
bữa tiệc cuối cùng này (và Tiệc Thánh Thể) là một
biến cố cô lập, cần phải liên kết nó với
các bữa ăn Đức Giêsu đã chia sẻ trước
đây với những người thu thuế và tội lỗi
(x. 2,16) và với bữa tiệc cánh chung tương lai.
-
Hát thánh vịnh xong (26):
Đây là khối Tv 113–118, thường
được gọi là Tập Hallel nhỏ. Tập Hallel này này có một vị trí đặc
biệt trong ba đại lễ Vượt Qua, Ngũ Tuần
và Lều.
4.- Ý nghĩa của bản văn
*
Chuẩn bị tiệc Vượt Qua (12-16)
Bữa
tiệc có một tầm quan trọng lớn lao trong Tin Mừng.
Tác giả Mc thường xuyên cho thấy Đức Giêsu ngồi
vào bàn ăn với các môn đệ, với những người
tội lỗi và với dân chúng. Biến cố cuối cùng
trước Thương Khó cũng vẫn là một bữa
tiệc: Đức Giêsu cùng với Nhóm Mười Hai cử
hành tiệc Vượt Qua. Trong sự hiệp
thông đức tin và đạo giáo Israel, các ngài cử hành lễ
trọng nhất của dân tộc mình. Bằng bữa tiệc Vượt Qua,
dân Israel nhắc lại cách Thiên Chúa đối
xử với các tổ phụ và được canh tân
trong niềm tin đầy tri ân, vui tươi và vững
vàng đặt nơi Thiên Chúa.
Các
môn đệ được phái đi chuẩn bị cho cuộc
gặp gỡ cuối cùng của Đức Giêsu với các
môn đệ trên bối cảnh là bữa tiệc và nội
dung của đại lễ Vượt Qua như thế.
Các môn đệ đã đi vào thành và gặp
một người mang vò nước đón mình. Các ông đã chuyển giao sứ điệp:
“Thầy nhắn: «Cái phòng dành cho tôi ăn lễ Vượt
Qua với các môn đệ của tôi ở đâu?»”. Đây là lần duy nhất danh xưng “Thầy”
(didaskalos) được Đức Giêsu dùng để nói về
mình, vừa với nghĩa là “vị thầy truyền
đạt kiến thức”, vừa theo nghĩa là “bậc
đáng kính”; điều này còn được khẳng
định bởi cụm từ “các môn đệ của
tôi” chỉ được dùng duy nhất ở đây. Tuy nhiên,
chi tiết “người mang vò nước” lại chứng
tỏ rằng hành trình đưa Đức Giêsu đến
cuộc Thương Khó đã được tiên liệu
trong từng chi tiết: Người biết và Người
vâng phục (x. 11,1t). Như thế, bên cạnh
sự cao cả của Người, là sự hạ mình
khiêm nhường của Người. Ông
chủ nhà sẽ dành cho các môn đệ một phòng lớn
trên lầu trên (thường đây là phòng rộng nhất
của căn nhà). Các môn đệ thấy
mọi sự đúng y như Đức Giêsu đã nói
trước.
*
Khai mạc giao ước (22-26)
Tại
bữa tiệc, trong bánh và rượu, Đức Giêsu ban
cho các môn đệ thân mình và máu của Người. Đây là bữa tiệc từ biệt. Đức
Giêsu sẽ bị giao nộp và bị giết, Người
sẽ không đi đi lại lại trong xứ cùng với
các ông, cũng không ăn tiệc với
các ông như lâu nay nữa. Tuy nhiên, Người
sẽ ở giữa các ông trong bánh và rượu; trong
tương lai, đây sẽ là cách thức hiện diện
của Người. Đức Giêsu từ
biệt, tuy vậy, Người vẫn ở lại
đó.
Máu mà Đức Giêsu hiến dâng trong
chén rượu là máu của giao ước, được
đổ ra vì muôn người. Tiếp nối vào cuộc giải phóng
khỏi đất Ai Cập, được nhắc lại
trong tiệc Vượt Qua, là việc ký giao ước tại
núi Sinai. Đây không phải là một giao
ước giữa các partner ngang nhau. Trước tiên
giao ước này có đặc điểm là Thiên Chúa tự
ràng buộc và tự cam kết là Thiên Chúa nhân ái của dân
(x. Xh 20,1); và giao ước này hàm chứa
cam kết của dân là tuân giữ các điều răn (x.
Xh 20,3-17). Giao ước được đóng ấn, khi
Môsê rảy máu tế vật lên bàn thờ và dân chúng (Xh 24,6-8). Với máu của Đức
Giêsu, giao ước mới và vĩnh viễn được
đóng ấn. Trong máu Người, trong hành vi hiến
tặng mạng sống của Người, tình yêu của
Thiên Chúa đối với thế gian được tỏ
bày (x. Ga 3,16); nhờ máu Người
đổ ra, “một đoàn lũ đông đảo”
được giải thoát khỏi tội lỗi. Đức Giêsu không chỉ ở lại với
các môn đệ, mà còn đặt nền tảng và đóng ấn
cho sự hiệp thông của họ với Thiên Chúa.
Đức
Giêsu tạng ban cho họ mình và máu Người. Mình và máu là toàn thể bản thân một người.
Việc Người tặng ban mình và máu phải mãi mãi nhắc
nhớ đến việc Người hiến tặng mạng
sống, cái chết của Người trên thập giá.
Đàng khác, bánh là lương thực hằng ngày nuôi sống
con người, còn rượu chính là tiệc mừng trong
niềm vui. Để sống được,
loài người chúng ta cần lương thực. Khi
ban tặng chính mình trong bánh và rượu, Đức Giêsu
cho ta thấy rằng nhờ sự hiện diện của
Người giữa chúng ta và nhờ sự hiệp thông của
chúng ta với Người, chúng ta có sự sống ở mức
viên mãn và trong niềm vui.
Trong
những lời kết thúc (c. 25), Đức Giêsu lại nhấn
mạnh rằng sự hiệp thông mà Người đã sống
cho đến lúc này với các môn đệ đã đến
lúc kết thúc: Người sẽ không uống thứ
rượu trong tiệc mừng với họ như lâu nay
Người vẫn làm nữa. Đồng thời, Đức
Giêsu nói đến sự hoàn tất của sự hiệp
thông này trong Nuớc Thiên Chúa, khi Thiên Chúa sẽ thiết lập
và tỏ bày vĩnh viễn quyền chúa tể của Ngài
ra.
+ Kết
luận
Khi
tường thuật truyện Đức Giêsu mừng lễ
Vượt Qua với các môn đệ, tác giả Mc đã
cho thấy Đức Giêsu đã trung thành đi theo ý muốn của Thiên Chúa trong từng chi
tiết. Do đó, bài tường thuật không chỉ để
ghi nhận các sự kiện, nhưng mang tính tín lý. Tác giả đã liên kết Thương Khó với
tiệc cuối cùng; với bữa tiệc này, cuộc
Thương Khó đã bắt đầu vào lễ Vượt
Qua. Lễ Vượt Qua của Đức Giêsu
được ghi dấu ấn là cuộc Thương Khó
của Người. Rất có thể từ ngữ pascha
khiến tác giả Mc nghĩ đến ý nghĩa của từ
Hy Lạp paschô (“đau khổ”); dĩ nhiên về từ nguyên
thì không đúng, nhưng về thực tại thì có lý.
Đức Giêsu cũng bày tỏ sự
trung thành với các môn đệ cho đến cùng, qua việc
hiến tặng mình và máu Người trong bánh và rượu. Sự trung thành của
Đức Giêsu, được tỏ hiện trong tất
cả mọi hình thức hiện diện của Người,
là điểm vững chắc duy nhất trong tương
quan hỗ tương giữa Người với các môn
đệ. Đức Giêsu luôn ở cùng
chúng ta và cho chúng ta được hiệp thông của
Người như cho một quà tặng.
5.- Gợi ý suy niệm
1.
Đến cuối thời gian hoạt động, Đức
Giêsu lại chia sẻ bữa tiệc Vượt Qua này với
các môn đệ: bữa tiệc này nhắc lại lịch
sử của quan hệ của Thiên Chúa với Israel và đưa tới chỗ hoàn tất.
Đức Giêsu lại ăn tiệc với
các môn đệ, như cách hiệp thông riêng tư với
các ông. Tại đây mọi sự được
quay hướng về các hình thái khác của sự hiện
diện của Người giữa các môn đệ, về
sự hiệp thông không cùng của họ với Người.
Tuy nhiên, các môn đệ không thể tự ru ngủ mình
trong sự an toàn; chính họ đã thấy định mệnh
của Đức Giêsu là một chướng kỳ; chính họ
đã không đủ sức liên kết với Người.
2.
Trên thập giá, Đức Giêsu đã đổ máu ra; bằng
cái chết của Người, Người đã thiết
lập giao ước mới, tạo điều kiện
cho có sự hiệp thông vĩnh viễn của Thiên Chúa với
loài người. Đức Giêsu sẽ mãi mãi ở
với họ và sẽ là Đấng Chịu đóng
đinh đã hiến tặng mạng sống cho họ.
Cho đến nay, Người đã ở giữa họ
theo cách thấy được rõ ràng bằng mắt thường,
kể từ nay, Người sẽ ở giữa họ
trong bánh và rượu, trong tư cách Đấng Chịu
đóng đinh, trong tư cách dấu chỉ tình yêu của
Thiên Chúa và sự sống. Tất cả những
điều này sẽ tới mức viên mãn khi Nước
Thiên Chúa được tỏ hiện.
3.
Hôm nay chúng ta đã quen coi truyền thống về bữa
tiệc ly như là một thành phần thuộc cuộc
Thương Khó. Điều này chính tác giả Mc đã nhắm:
bữa tiệc này được quy hướng về thập
giá và Phục Sinh. Bữa tiệc này kết
thúc các bữa tiệc Đức Giêsu dùng với các người
tội lỗi (2,15tt) và với dân chúng (6,35tt; 8,1tt) và
đưa các môn đệ vào cuộc Thương Khó.
Người Kitô hữu khi tham dự vào bữa
tiệc Thánh Thể thì cũng đã được đặt
trên cùng một nẻo đường.
4.
Việc lãnh nhận Mình và Máu của Chúa mang lại cho chúng
ta sự thông dự vào sự sống của Người,
cái chết cũng như sự phục sinh ngõ hầu chúng
ta cũng có thể sẵn lòng sống phục vụ và yêu
thương tha nhân như Người đã làm. Khi chúng ta đón nhận Bánh Sự Sống và Chén Cứu
Độ, chúng ta được nhắc nhớ rằng chết
không phải là hết. Với mỗi cái
chết là một lời hứa và mở ra sự sống
mới (Siciliano).
|