HIỆP
SỐNG TIN MỪNG
CHÚA NHẬT 7
PHỤC SINH
LỄ THĂNG
THIÊN
Cv 1,1-11 ; Ep 1,17-23 ;
Mc 16,15-20
CHÚA VỀ TRỜI TRAO SỨ
MỆNH LOAN BÁO TIN MỪNG CHO HỘI THÁNH
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mc 16,15-20.
(15) Người nói với
các ông: “Anh em hãy đi khắp tứ
phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho
mọi loài thọ tạo. (16) Ai tin và chịu phép Rửa sẽ
được cứu độ. Còn ai không tin,
thì sẽ bị kết án”. (17) Đây là
những dấu lạ sẽ đi theo những ai
có lòng tin: Nhân danh Thầy, họ sẽ trừ
được quỷ, sẽ nói
được những tiếng mới lạ.
(18) Họ sẽ cầm được rắn,
và dù có uống nhằm thuốc
độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu
họ đặt tay lên những người
bệnh, thì những người này
cũng được mạnh khỏe. (19) Nói xong,
Chúa Giê-su được rước lên
trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. (20)
Còn các Tông đồ thì ra đi rao gảng
khắp nơi, có Chúa cùng hoạt
động với các ông, và dùng
những dấu lạ kèm theo mà xác nhận
lời các ông rao giảng.
2. Ý
CHÍNH:
Đức
Giê-su trước khi về trời đã trao
cho các Tông đồ tiếp tục sứ mệnh rao
giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật,
để ai tin và chịu phép rửa thì
được trở nên con Thiên Chúa và
được hưởng ơn cứu độ
của Chúa Giê-su. Còn những kẻ không tin thì
sẽ bị kết án là bị loại khỏi Nước
Trời. Chúa còn hứa hỗ trợ các tông
đồ bằng việc ban quyền làm phép
lạ Sau đó Chúa Giê-su đã được
rước lên trời. Còn các Tông
đồ thì đi rao giảng Tin Mừng
khắp nơi với sự trợ giúp
của Người.
3. CHÚ
THÍCH:
- C 15-16: +Anh em
hãy đi: Lệnh truyền
này chỉ được công bố sau biến
cố Phục Sinh cho thấy: mầu nhiệm Phục Sinh
là nền tảng cho sứ mạng rao giảng Tin
Mừng. +Khắp tứ phương thiên
hạ: Trong
thời gian 3 năm rao giảng Tin Mừng,
Đức Giê-su chỉ được sai
đến cùng các con chiên lạc của nhà
Ít-ra-en. Nhưng sau khi Phục Sinh, Người lại
trao sứ mạng phổ quát “loan báo Tin
mừng cho mọi loài thụ tạo”. +Loan
báo Tin Mừng: Theo
Hy ngữ, Tin Mừng ( Eu-ag-ge-li-on) là một
“tin vui, tin mừng”. Có thể hiểu Tin
Mừng Đức Giê-su theo hai nghĩa: Một
là “chính Tin Mừng được Đức
Giê-su công bố. Hai là “Tin Mừng về
Đức Giê-su”, Đấng ban ơn cứu
độ nhờ mầu nhiệm chết và
sống lại của Người. +Cho mọi
loài thọ tạo: Mọi
loài thọ tạo mang ý nghĩa cánh chung,
nghĩa là mọi dân mọi nước (x. Mt
28,19), Chúa sẽ biến đổi mọi tạo
vật nên Trời Mới Đất Mới
vào ngày Tận Thế (x. Kh 21,1). +Ai tin và
chịu phép Rửa sẽ được
cứu độ: Tin
là mở lòng đón nhận Đức
Giê-su là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa.
Chịu phép Rửa là nhận ơn tha tội
và ơn tái sinh để nên con người
mới và nên dưỡng tử của Thiên
Chúa. Nhờ đó họ sẽ
được sống đời đời.+
Còn ai không tin thì sẽ bị kết án: Thực ra, Thiên
Chúa sai Con của Người đến thế
gian không phải để lên án, nhưng để
thế gian nhờ Con của Người mà được
cứu độ (x Ga 3,17). Nhưng kẻ không tin
thì đã bị lên án rồi, vì đã
không tin vào danh Con Một Thiên Chúa. Họ giống
như cành nho bị tách lìa khỏi thân cây
là Đức Giê-su, nên bị khô héo và sẽ bị
quăng vào lửa hỏa ngục đời
đời (x. Ga 15,5-6). +Còn
những người không tin Đức Giê-su
nhưng không do lỗi của họ thì có
được ơn cứu độ không?: Những
ai tuy không biết Đức Ki-tô, nhưng theo
lương tâm ăn ở ngay lành, thì Chúa
sẽ lo liệu cho họ có đủ phương
tiện cần thiết để được
rỗi linh hồn. Chỉ những kẻ cố
tình theo phe ma quỷ làm điều gian ác
và không chịu hồi tâm sám hối thì
chắc chắn sẽ phải xuống hỏa
ngục. Vì hỏa ngục được lập
ra để dành cho ma quỷ và những kẻ
đi theo chúng (x. Mt 25,41).
- C 17-18: +Đây
là những dấu lạ sẽ đi theo
những ai có lòng tin: Ngay trong thời gian giảng đạo,
khi sai các Tông đồ đi thực tập
truyền giáo, Đức Giê-su đã ban cho
các ông quyền trên các thần ô uế để
xua trừ chúng và chữa lành các
bệnh hoạn tật nguyền trong dân (x. Mt 10,1-5).
Giờ đây trước khi về trời,
Đức Giê-su lại trao quyền làm các
dấu lạ cho các ông. +Nhân danh Thầy, họ
sẽ trừ được quỷ, sẽ nói
được những tiếng mới lạ.
Họ sẽ cầm được rắn, và
dù có uống nhằm thuốc độc,
thì cũng chẳng sao. Và nếu họ
đặt tay lên những người bệnh,
thì những người này sẽ
được mạnh khỏe: Khi viết Tin Mừng (khoảng năm
65), Thánh Mác-cô đã nghe biết các
phép lạ do các Tông đồ thực hiện.
Chẳng hạn: Vào lễ Ngũ Tuần, các
ông đã được đầy ơn Thánh
Thần, bắt đầu nói các thứ
tiếng khác lạ (x. Cv 2,4). Thánh Thần
cũng ngự xuống trên gia đình Co-nê-li-ô
và cho họ nói các thứ tiếng
lạ (x. Cv 10,44-46). Nhiều dấu lạ điềm
thiêng được thực hiện trong dân
nhờ bàn tay các Tông đồ (x. Cv 5,12). Tông
đồ Phê-rô đặt tay trên bệnh nhân
hoặc chỉ cần bóng của ông phớt
qua đã đủ để họ
được lành bệnh, và thần ô uế
cũng phải xuất ra (x. Cv 5,15-16). Còn tông
đồ Phao-lô thì chữa lành một người
bị bại chân tại Lýt-ra (x. Cv 14,8-10); Tại
đảo Man-ta, Phao-lô đã bị rắn
độc bám vào tay và cắn mà không
hề hấn gì (x. Cv 28,1-6); Ông cũng đã
cầu nguyện và đặt tay chữa
lành nhiều bệnh nhân (x. Cv 28,8-9); Ngay cả chiếc
áo ông đã mặc qua cũng có năng
lực làm cho cơn bệnh biến đi và
tà thần phải xuất ra (x. Cv 19,11; 20,9-12).
- C 19-20: +Chúa
Giê-su được rước lên trời: Như Ê-li-a thời
Cựu Ước đã “lên trời trong
cơn gió lốc”(2 V 2,11), thì thân xác Chúa
Giê-su cũng được rước lên
trời trên các tầng mây, và từ nay
Người không còn lệ thuộc vào không gian
thời gian như khi còn sống nữa. +Và
ngự bên hữu Thiên Chúa: Đức Giê-su đã
được Chúa Cha tôn vinh (x Đn 7,13-14),
được vào trong vinh quang của Chúa Cha,
với quyền cai trị vũ trụ (x. Mt 28,18; Ep
1,21-22).
+ Thiên Đàng là gì? Thiên
Đàng ở đâu? Ta phải làm gì
để được lên Thiên Đàng?:
** Thiên
Đàng hay Địa Đàng (Hy ngữ
là Pa-ra-dei-sos) có nghĩa là Hoa viên hay
vườn đầy hoa tươi cỏ lạ (x
St 2,8). Địa đàng là một khu
vườn hoan lạc nơi mà con
người được sống trong hạnh
phúc. Nhưng nguyên tổ lòai người là ông
Ađam và bà Evà đã liên kết với nhau phạm
tội kiêu ngạo, cãi lệnh Chúa mà ăn quả cây
bị cấm, nên hai ông bà đã bị đuổi ra
khỏi Địa đàng, bị lọt vào
trần gian là thung lũng đầy nước mắt, gai
góc và đau khổ (x. St 3,7.16-19). Tuy nhiên, Thiên Chúa
cũng hứa sẽ ban Đấng Cứu Thế
đến khôi phục lại tình trạng nguyên
thủy cho con người (x. St 3,15). Ngài sẽ
biến nơi đau khổ lưu đầy này
thành Thiên đàng hoan lạc và hạnh phúc
như thuở ban đầu (x. Ed 36,35 ; Is 51,3).
+ Ra đi rao
giảng khắp nơi:
Các Tông đồ đã vâng lời Chúa
Giê-su, đi rao giảng Tin Mừng, làm chứng
cho Đức Giê-su tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp
các miền Giu-đê, Sa-ma-ri, và cho đến
tận cùng trái đất (x. Cv 1,8). + Có
Chúa cùng hoạt động với các
ông...: Từ
đây, Chúa Ki-tô sẽ luôn hiện diện trong Hội
thánh (x Mt 28,20). Người ban Thánh Thần cho
Hội thánh để tha tội cho người ta giống
như Người đã làm (x Ga 20,21-22).
Người cũng hứa ban cho Hội thánh
làm được những việc lớn
hơn Người là đi rao giảng cho các
dân tộc nhờ Thánh Thần (Ga 14,12).
4. CÂU HỎI:
1) Mầu nhiệm Phục Sinh có tầm quan trọng
thế nào đối với sứ mệnh
được sai đi? Các Tông đồ
được Chúa sai đến với
những ai? 2) Tin Mừng Đức Giê-su có
những nghĩa nào? 3) Phải có những
điều kiện nào để được
hưởng ơn cứu độ của
Đức Giê-su? 4) Những ai chắc
chắn sẽ bị kết án sa hỏa ngục?
Những người chưa có đức
tin, nhưng theo lương tâm ăn ở ngay lành
có được hưởng ơn cứu
độ không? 5) Trong thời gian giảng đạo,
khi sai môn đệ đi thực tập truyền
giáo, Đức Giê-su đã ban cho các ông
những quyền nào? 6) Trước khi về
trời, Đức Giê-su đã trao sứ
mệnh loan Tin Mừng cho các Tông đồ kèm
theo những dấu lạ nào? 7) Lời
Chúa phán về các dấu lạ kèm theo
lời rao giảng của các Tông đồ
đã ứng nghiệm thế nào thời
Giáo Hội Sơ Khai? 8) Thời Cựu
Ước, ngôn sứ nào được
rước lên trời? Thời Tân
Ước hai nhân vật nào cũng
được lên trời? Chúa Giê-su thăng
thiên khác với việc mông triệu của
Đức Ma-ri-a ra sao? 9) Một người lương
dân luôn ăn ngay ở lành mà chết thì
có được hưởng ơn cứu
độ không? 10) So sánh lời Chúa Giê-su trong
Tin Mừng Mát-thêu “Hãy đi và làm cho muôn dân
trở thành môn đệ...”(x Mt 28,19) với
Lời Chúa được ghi trong sách Công Vụ “Hãy nên
chứng nhân của Thầy...” (x Cv 1,8) giống và
khác nhau ra sao? 11) Sau khi lên trời, Chúa Giê-su còn
ở với Hội thánh nữa không? 12) Từ
đây, Chúa Thánh Thần được ban cho
Hội thánh để làm gì?
II.SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI
CHÚA: “Chúa Giê-su được rước
lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa” (Mc
16,19):
2. CÂU
CHUYỆN:
1) GIÁ
TRỊ CỦA NIỀM TIN VÀO MỘT CUỘC SỐNG
VĨNH HẰNG ĐỜI SAU:
Một
vị Tù trưởng của một bộ tộc Phi Châu
đau nặng gần chết. Ông cho gọi ba người
con có khả năng nắm giữ chức vụ tù
trưởng của ông đến bên giường và nói:
-
Một trong ba người chúng con sẽ kế vị ta. Để
biết xem ai xứng đáng, các con hãy lên đỉnh núi
thiêng của bộ tộc chúng ta tìm mang về một linh vật
nào quý giá nhất.
Mấy
ngày sau người con thứ nhất trở về mang
theo một bức tượng bằng vàng ròng.
Người
con thứ hai cũng mang về một viên ngọc to quý
có giá trị lớn.
Còn
người con thứ ba thì trở về với hai bàn
tay không.
Ngạc
nhiên, viên tù trưởng hỏi anh ta: “Linh vật quý giá nhất
con mang về đâu?”
Anh
ta bình tĩnh trả lời:
-
Thưa cha. Khi leo lên tới đỉnh núi thiêng và đi tìm kiếm
báu vật như cha căn dặn, thì con đã khám phá ra phía
sau rặng núi thiêng có một rặng núi khác. Con vượt
qua thì đã tìm thấy một miền đất mới rất
phì nhiêu mầu mỡ, có suối nước trong, cây cỏ
xanh tươi với nhiều loài thú sinh sống. Theo con
nghĩ nếu bộ tộc chúng ta sống ở miền
đất này thì sẽ trở nên hùng cường.
Nghe
vậy viên tù trưởng rất vui và nói:
-
Cha rất mừng khi đã tìm ra người thừa
kế chức vị tù trưởng bộ tộc là con. Con
đã đem về cho chúng ta báu vật vô giá chính là niềm
hy vọng vào một tương lại tươi
đẹp về một cuộc sống ấm no hạnh
phúc.
Không
ai biết trước cuộc sống của mình ra sao sau
khi chết. Chỉ mình Đức Giêsu, là Con Thiên Chúa từ
trời xuống thế làm người, mới mạc
khải cho chúng ta biết quê hương thực sự của
chúng ta là nước trời đời sau: Một Trời
mới Đất mới như sau: “Bấy giờ tôi
thấy trời mới đất mới, vì trời cũ
đất cũ đã biến mất, và biển cũng
không còn nữa. Và tôi thấy Thành Thánh là Giê-ru-sa-lem mới,
từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, sẵn
sàng như tân nương trang điểm để đón
tân lang. Rồi tôi nghe từ phía ngai có tiếng hô to:
"Đây là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại,
Người sẽ cư ngụ cùng với họ. Họ
sẽ là dân của Người, còn chính Người sẽ
là Thiên-Chúa-ở-cùng-họ. Thiên Chúa sẽ lau sạch
nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết;
cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa,
vì những điều cũ đã biến mất." (Kh 21,1-4).
2) THIÊN ĐÀNG Ở ĐÂU?
Ngày 5-9-1961, Liên Xô đã phóng một phi
thuyền mang theo một người lên không gian và bay
được ba vòng chung quanh trái đất. Sau đó trong
một cuộc phỏng vấn, Tổng Bí thư Krouchev đã
nói với ký giả của tờ New York Time của Mỹ như
sau: " Để điều tra trên trời có Thiên
đàng thật như người ta nói hay không, chúng tôi
đã gửi một thám tử lên không trung là: YOURI
GARARINE. Anh ta đã đi vòng quanh quả địa cầu
mà chỉ trông thấy những bóng đen dầy
đặc, không thấy Thiên đàng ở đâu cả. Sau
đó chúng tôi lại gửi một thám tử khác
lên: GERMAN TITOV. Chúng tôi đã bảo anh ta: "Hãy bay lâu
hơn một chút nữa. Có lẽ Gagarine chưa thấy
Thiên đàng vì chàng chỉ mới bay có một tiếng
rưỡi thôi. Vậy chuyến này anh hãy nhìn cho
kỹ". Titov đã trẩy đi, rồi trở về
và anh xác nhận lời tuyên bố của Gagarine là sự
thật: "Hư vô! Chỉ có Hư vô!" Rồi sau
đó Krouchev kết luận: "Vì thế chúng tôi không tin
có đời sau".
Đó là cái nhìn của
một người vô tín theo chủ nghĩa duy vật. Cái
nhìn đó không phải là cái nhìn của người có
đức tin như chúng ta.
Trong kinh Tin Kính các tín hữu chúng ta cũng
tuyên xưng đức tin vào Chúa Giê-su và cuộc sống
Thiên đàng, về một Nước Trời hằng
sống như sau: “Người lên trời, ngự bên
hữu Chúa Cha, và Người sẽ lại đến trong
vinh quang, để phán xét kẻ sống và kẻ chết,
Nước Người sẽ không bao giờ cùng”.
3) THIÊN
ĐÀNG Ở NGAY TRONG CUỘC SỐNG ĐỜI THƯỜNG:
Người Pha-ri-sêu hỏi
Đức Giê-su bao giờ Triều Đại Thiên Chúa
đến. Người trả lời:
"Triều Đại Thiên Chúa không đến như
một điều có thể quan sát được.
Và người ta sẽ không nói: "Ở đây
này! hay "Ở kia kìa! , vì này Triều Đại
Thiên Chúa đang ở giữa các ông." (Lc 17,20-21).
Thời
Trung cổ, có hai tu sĩ tình cờ đọc thấy trong
một cuốn sách cổ chép rằng: ở tận cùng trái
đất sẽ có một nơi mà trời đất
gặp nhau. Họ quyết định ra đi tìm cho
bằng được điểm gặp nhau ấy và
thề quyết sẽ không trở về nhà nếu không tìm
ra nơi ấy, vì họ đã đọc được
trong quyển sách cổ rằng tại điểm giao nhau
giữa trời và đất, một cánh cửa sẽ
mở ra và họ sẽ nhìn thấy Thiên Chúa tỏ
tường. Họ vượt thác băng rừng, không
quản ngại hy sinh. Cuối cùng thì họ cũng
đứng trước giao điểm ấy. Với
tất cả xúc động, họ đưa tay gõ vào cánh
cửa hẹn hò, cánh cửa mở ra và họ bỡ
ngỡ nhận ra đó chính là căn phòng của mình.
Họ chợt hiểu rằng nơi gặp gỡ
giữa trời và đất, nơi hẹn hò giữa Thiên
Chúa và con người không gì khác hơn là chính cuộc
sống hằng ngày của họ.
4) TRUYỀN
GIÁO LÀ THẮP LÊN NGON ĐÈN YÊU THƯƠNG TRONG LÒNG
NGƯỜI:
Mẹ
Têrêxa Can-quýt-ta vốn là một nữ tu người Anbani,
được sai đến phục vụ người
nghèo tại Ấn độ. Đến Ấn độ,
thấy những người nghèo khổ quá tội
nghiệp. Biết bao người hấp hối ờ ngoài
lề đường. Sau khi chết xác liền bị
quẳng vào đống rác như một con vật.
Biết bao trẻ thơ bị bỏ rơi. Biết bao
gia đình sống chui rúc trong các căn nhà ổ chuột.
Biết bao người sống đói khát không đủ
cơm ăn áo mặc hằng ngày. Mẹ Tê-rê-sa đã lăn
xả vào việc phục vụ người nghèo.
Một hôm Mẹ đi thăm một
ông già cô đơn trong căn lều tồi tàn.
Bước vào lều Mẹ động lòng thương
cảm. Vì tất cả đồ đạc chỉ là
một mớ giẻ rách. Căn lều bụi bặm
bẩn thỉu ngoài sức tưởng tượng. Và
nhất là ông già thu mình lại không muốn giao tiếp
với ai. Mẹ chào hỏi ông cũng không buồn trả
lời. Mẹ xin phép dọn dẹp căn lều ông
cũng làm thinh. Đang khi dọn dẹp, Mẹ thấy
trong góc lều có một cây đèn dầu bụi bám đen
đủi. Sau khi lau chùi, Mẹ kêu lên: “Ô, cây đèn
đẹp quá”. Ông già nói: “Đó là cây đèn tôi tặng
vợ tôi ngày cưới. Từ khi bà ấy chết, tôi
không bao giờ đốt đèn nữa”. Thấy ông đã
cởi mở, Mẹ Têrêxa liền đề nghị: “Thế
ông có bằng lòng cho các chị nữ tu mỗi ngày
đến thăm và đốt đèn cho ông không?” Ông
đồng ý. Từ đó mỗi buổi chiều, các
chị tới thăm ông, dọn dẹp nhà cửa, nói
chuyện với ông. Ngọn đèn cháy sáng ấm áp trong
căn lều. Ông trở nên vui vẻ hơn. Ông đã đến
thăm mọi người và được mọi
người đến thăm. Cuộc đời của ông
đã vui trở lại.
Trước
kia cuộc đời ông tăm tối không phải vì ông
không thắp đèn. Nhưng vì ngọn đèn trong trái tim ông
đã tắt. Trái tim khép kín nên ông mất niềm tin vào con
người, vào cuộc sống. Ông nhìn mọi
người như thù địch. Từ ngày các nữ tu
đến đốt đèn đời ông vui lên, sáng lên.
Đời ông sáng lên không phải vì có ngọn đèn
dầu hoả soi sáng. Nhưng vì trái tim ông bừng sáng.
Ngọn đèn tâm hồn ông rạng rỡ. Tâm hồn ông
cởi mở và ông nhìn thấy mọi người là anh em.
Thứ ánh sáng ấy ta thấy trong Phúc Âm. Khi người
Samaritano nhân hậu cúi xuống săn sóc, băng bó vết
thương cho người bị nạn bên đường.
Hai người nhìn nhau. Một làn ánh sáng loé lên. Và họ
nhận ra nhau là anh em.
Hôm
nay Hội Thánh cầu nguyện cho công cuộc loan báo Tin
Mừng và mời gọi chúng ta góp phần vào việc
truyền giáo. Không gì bằng ta hãy noi gương Mẹ
Têrêxa, thắp lên ngọn lửa tin yêu trong lòng mình, đem
ngọn lửa yêu thương phục vụ đi soi sáng
khắp nơi. Thế giới sẽ bừng sáng và mọi
người sẽ nhìn nhận ra nhau là anh em.
3. SUY NIỆM:
1) Đức Giê-su nhiều lần
nói đến trời cao: Trời hay Thiên
đàng là nơi Thiên Chúa ngự. Chẳng
hạn : Trong kinh Lạy Cha, Chúa Giê-su dạy ta cầu
nguyện với Thiên Chúa Cha là Đấng ngự
trên trời (x. Mt 6,9) ; Người cũng
dạy: “Ánh sáng của anh em phải chiếu
giãi trước mặt thiên hạ, để
họ thấy những công việc tốt đẹp anh
em làm mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự
trên trời” (Mt 5,16.45).
2) Đức Giêsu đã từ
trời mà đến: Không ai đã lên
trời, ngoại trừ Con Người,
Đấng từ trời xuống để
rồi lại trở về trời (x. Ga 3,13 ;
6,62). Người là Bánh Hằng Sống từ
trời xuống, là bánh đem lại
sự sống cho thế gian (Ga 6,33).
3) Đức Giê-su đã được
rước lên trời: Sau khi sống lại,
Đức Giê-su tuyên bố Người đã
được ban “mọi quyền năng trên
trời dưới đất” (x. Mt 28,18),
“Người là vị Thượng Tế
thánh thiện, vẹn toàn, vô tội, tách
biệt khỏi đám tội nhân và
được nâng cao vượt các tầng
trời” (x. Dt 7,26), và đã vào
chính cõi trời, để giờ
đây đứng trước mặt Thiên
Chúa chuyển cầu cho chúng ta (x. Dt 9,25). Qua
hình ảnh được rước lên
trời, Chúa Phục Sinh sẽ không còn hiện
ra với các tông đồ như trong thời
gian 40 ngày qua. Từ đây, Người sẽ
hiện diện cách thiêng liêng, không bị lệ
thuộc vào thời gian và không gian như
Người đã hứa: “Thầy sẽ
ở cùng anh em mọi ngày cho đến
tận thế” (Mt 28,20).
4) Niềm hy vọng lên Trời của chúng
ta: Chúa
Giê-su lên trời là để dọn
chỗ cho các môn đệ và Người
sẽ trở lại lần thứ hai để
đem họ về với Người (x. Ga 14,2-3).
Thiên đàng là nơi trú ngụ của Thiên
Chúa mà thánh Phao-lô đã cảm thấy
vui thoả khi được chiêm ngắm
những thực tại khôn tả (x 2 Cr 12,4);
Là Vương Quốc dành cho những
người công chính được
hưởng hạnh phúc muôn đời (x. Mt
25,34.46). Đây là Nước Trời do
Đức Giê-su thiết lập ở trần gian
và sẽ phát triển cho tới tầm mức viên mãn vào
ngày Tận Thế khi Người tái lâm,
trở lại lần thứ hai trong uy quyền vinh quang.
Thiên Đàng còn là nơi dành cho tội nhân
có đức tin vào Chúa Giê-su và có lòng sám
hối cậy trông vào lòng thương xót của
Đức Giê-su, như kẻ trộm lành cùng chịu
chết với Chúa trên cây thập giá khi xưa (x. Lc 23,43).
5) Để được vào Thiên
đàng với Đức Giê-su sau này, các tín hữu phải
làm gì ngay từ hôm nay?
-MỘT
là tin Chúa Giê-su
là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa và
được tái sinh
bởi nước và Thánh Thần trong
phép rửa tội.
-HAI
là phải ăn năn
sám hối tội lỗi, từ bỏ các
đam mê bất chính và quyết tâm chừa
cải các thói hư tật xấu.
-BA là
phải sống giới
răn yêu thương là mến Chúa yêu người
bằng cách năng nghĩ đến tha nhân, khiêm tốn
phục vụ, quảng đại chia sẻ cơm áo
cho những người bệnh tật nghèo
đói để trở
nên môn đệ đích thực của Đức Giê-su.
-BỐN
là phải đi con
đường hẹp và leo dốc, từ bỏ
ý riêng mình để vâng phục ý Thiên Chúa,
sẵn sàng vác
thập giá là các tai nạn gặp phải trong cuộc
sống hằng ngày.
-NĂM
là phải biết dùng
của cải vật chất Chúa ban để
phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân hầu
mua lấy Nước Trời đời sau.
-SÁU
là phải chu toàn sứ mệnh tông đồ
truyền giáo, nghĩa là làm chứng cho Chúa bằng
đời sống gương sáng ngay
từ trong gia đình và ra ngoài xã
hội.
5. NGUYỆN
CẦU
LẠY CHÚA GIÊ-SU.
Hôm nay chúng con mừng đại lễ Thăng
Thiên. Chúng con thật vui mừng và hãnh
diện tuyên xưng Chúa chính là Đấng
Cứu Thế và là Con Thiên Chúa. Chúa lên
trời ngự bên hữu Thiên Chúa
để mở đường về trời
cho chúng con, để dọn chỗ cho chúng con
và đến ngày tận thế Chúa sẽ
trở lại để đem chúng con lên
trời với Chúa. Xin cho chúng con ý
thức rằng: “Quê hương chúng con
ở trên trời, nơi đó chúng con
sẽ gặp Đấng Cứu Chuộc là
Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng con”, để
dù đang sống giữa thế gian, nhưng
chúng con không thuộc về trần gian. Xin cho chúng
con biết dùng của cải đời này
để sắm cho mình kho báu thiêng liêng trên
trời, bằng việc chia sẻ cơm bánh cho
những người đói khát, quần áo
cho những kẻ rách rưới, chữa lành các
bệnh nhân đau liệt, thăm viếng an ủi những
người đau khổ thể xác cũng
như tâm hồn, giúp tội nhân ăn năn sám
hối trở về với Chúa... như kinh
“thương người” đã dạy.
X) HIỆP
CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI
CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM
|