Vốn vẫn như thế! – John W.
Martens
(Văn Chính, SDB chuyển ngữ)
“Quả thực, tôi biết Thiên Chúa không thiên vị
người nào” (Cv 10,34)
Trong bài ca “Một lần trong đời”, phần
điệp khúc đã lập đi lập lại câu: “Đời
vẫn như thế, cuộc sống vẫn như vậy…”.
Không biết điệp khúc này muốn nhấn mạnh
đến tính “vẫn như thế” hay tính bất biến
không đổi thay của cuộc sống, thắc mắc
này vẫn còn bỏ ngỏ. Tuy thế, người ta nghiệm
thấy trong cuộc sống vẫn có những điều
đổi thay, tăng trưởng và cả sự bền
vững, không đổi thay của thực tại. Kinh nghiệm
Phục sinh của các tông đồ cho chúng ta thấy nhiều
minh họa về sự thường hằng và cả sự
đổi thay này.
Chúng ta biết Thiên Chúa vẫn như thế,
không đổi thay và vĩnh cửu, như Người
đã tỏ lộ cho ông Mô-sê “Ta là Đấng Hằng sống”
(Xh 3,14). Ở tâm điểm của Hữu thể không
đổi thay của Thiên Chúa là chính sự Hiệp nhất
và Tình Yêu. Tuy nhiên, cách mà sự hiệp nhất và tình yêu của
Thiên Chúa được tỏ lộ cho các tông đồ,
các môn đệ của thời Giáo hội tiên khởi, lại
dường như phá vỡ sự bất biến không
đổi thay của bản tính Thiên Chúa. Qua việc sai
phái Người Con một của Thiên Chúa là Đức
Giêsu Ki-tô xuống trần gian để cứu chuộc
chúng ta khi chiến thắng trên tội lỗi và sự chết,
và sau đó trao ban Thánh Thần an ủi để hướng
dẫn Giáo hội, có điều gì đó làm đổi thay
cách thế chúng ta biết và cảm nghiệm về hữu
thể và tình yêu của Thiên Chúa.
Hẳn rằng không phải tình yêu của
Thiên Chúa là điều mới mẻ đối với
người Do Thái. Như lá thứ thứ nhất của
Thánh Gio-an đã nói tới điều này “Anh em thân mến,
chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ
Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được
Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa”. Tình
yêu của Thiên Chúa đã được bày tỏ trong suốt
lịch sử của dân Ít-ra-en. Tuy nhiên “Tình yêu của Thiên
Chúa đối với chúng ta được biểu lộ
như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế
gian để nhờ Con Một của Người mà chúng
ta được sống”. Chính qua sự biểu lộ của
Người Con Một, mà có một điều gì mới
đã xảy ra.
Điều mới mẻ này được
tìm thấy nơi sự phát triển mở rộng của
Giáo hội sau biến cố Phục sinh của Đức
Ki-tô, và nó làm cho những gì Đức Giêsu đã thực hiện
không chỉ dành cho một nhóm nhỏ các môn đệ của
Ngài, nhưng cho toàn thể nhân loại. Đã chẳng có một
lối đường rõ ràng cho Giáo hội, một đồ
án hay một bản hướng dẫn cho kế hoạch
phát triển 5 năm của Giáo hội. Những gì mà các
tông đồ có được vẫn là ân huệ của
Chúa Thánh Thần để giúp họ nhận biết sứ
mệnh của mình và khám phá ra Giáo hội thực sự là
gì.
Vẫn còn có một thứ sa mạc trong Chúa
Thánh Thần, một điều gì đó dường
như chưa thuần thục hay chưa kiểm soát
được, và công việc của Chúa Thánh Thần có thể
làm thay đổi những lối tư duy và hành động
cũ kỹ. Hẳn rằng điều này cũng thách
đố chính Giáo hội tiên khởi, như chúng ta nhìn thấy
trong cuộc gặp gỡ giữa Phêrô và Cornelius trong sách
Công Vụ Tông Đồ.
Qua những thị kiến, cầu nguyện
và cảm nghiệm về Chúa Thánh Thần, Phêrô đã đi
đến một lối nhận định mới mẻ:
Thiên Chúa đã ban Thánh Thần cho cả Dân ngoại nữa.
Nếu chuyện này dường như không tạo nên
cơn “sốc” cho chúng ta, đó là vì chúng ta đã được
Phêrô và các tông đồ chia sẻ: ngay cả các dân ngoại
cũng được cứu độ. Thế nhưng
chính sách Công vụ cũng nói tới việc Phêrô bị “sốc”
về chuyện này (Cv 10).
Tính chất mới mẻ về việc cả
dân ngoại cũng được đón nhận, đã
được công bố qua lời của Phêrô: “Quả thật,
tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào.
Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành,
thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều
được Người tiếp nhận”. Đây là
điều thực sự mới mẻ, mới mẻ tận
căn, mở ra con đường mới cho sứ mệnh
phổ quát của Giáo hội. Phêrô không đợi sự
đồng thuận của các tông đồ khác, nhưng
hành động dựa vào sự cảm nghiệm Thánh Thần
Thiên Chúa ở giữa họ. “Những người này
đã nhận được Thánh Thần cũng như
chúng ta, thì ai có thể ngăn cản chúng ta lấy nước
làm phép rửa cho họ?”. Thế rồi, Phêrô đã làm phép
rửa cho họ.
Người ta không thể chối bỏ sự
đổi thay gây sốc này trên các môn đệ của
Đức Giêsu qua tác động của Thánh Thần, và tính
mới mẻ của việc dân ngoại cũng được
đón nhận, dầu Phêrô có quyết định một
cách nhanh chóng, cũng cần được Giáo hội phê
chuẩn tại công đồng Giê-ru-sa-lem. Thế nhưng
tính mới mẻ này cũng ở ngay trong trạng thái
thường hằng của nó, tức là trong tình yêu không
đổi thay của Thiên Chúa. Vì những gì mà Giáo hội
được mời gọi thực thi cũng chính là việc
đưa toàn thể thế giới tới với lời
mời gọi tuân giữ giới răn của Thiên Chúa, một
điều xem ra rất xưa, nhưng lại được
làm mới mẻ trong tương giao với Chúa Con và Chúa
Thánh Thần. “Đây là giới răn của Thày: anh em hãy
yêu mến nhau như Thày đã yêu thương anh em” – Tình
yêu Thiên Chúa và tình yêu cận nhân, vốn vẫn như thế,
nhưng đã được làm nên mới hoàn toàn.
|