ĐIỀU
KIỆN CÁCH
(Chúa
Nhật VI Phục Sinh, năm B)
Điều
kiện cách là một dạng văn phạm
trong ngôn ngữ, một trong các dạng đó
người ta gọi là bàng thái cách
(past subjunctive). Đó là một cách
đặt giả thuyết: “Nếu…
thì…”.
Giả thuyết là điều không thể
xảy ra hoặc có thể xảy ra thật
trong cuộc sống đời thường.
Chính
Chúa Giêsu cũng đưa ra điều
kiện khi đặt vấn đề với những
ai muốn theo Ngài: “Ai
muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính
mình, vác thập giá mình mà
theo”
(Mt 16:24; Mc 8:34; Lc 9:23). Sắp xếp theo cấu trúc
điều kiện cách: “NẾU
muốn theo Tôi THÌ quý vị phải
từ bỏ mình và vác thập giá
mình mà theo”.
Ngài không ép buộc ai, Ngài muốn
người ta tự nguyện chấp nhận chứ
không miễn cưỡng.
Vác
thập giá là chịu đau khổ. Có
thể vui chịu đau khổ nếu người
đó có tình mến mãnh liệt.
Các thánh là những người chịu
đủ thứ đau khổ, cả tinh thần
và thể lý. Đau khổ là chén
đắng, chén đắng sẽ hóa chén
ngọt khi can đảm yêu đến cùng
như Thầy Giêsu. Thánh Faustina xác
định: “Đau
khổ là ĐẠI HỒNG ÂN; qua đau
khổ, linh hồn trở nên GIỐNG Đấng
Cứu Độ; trong đau khổ, tình yêu
trở nên TINH TUYỀN; càng chịu đau
khổ, tình yêu càng TINH KHIẾT”
(Nhật Ký, số 57). Con người bình
thường không thể hiểu nổi, và
người ta coi đó là sự điên
rồ.
Người
ta thường ví von: “Yêu
là chết trong lòng một ít”.
Ai đã yêu thì “chết” chắc,
không nhiều thì ít. Mà thường
thì “nhiều” chứ không “ít”.
Một người không thể gọi là
yêu, ít nhất phải có hai người
mới khả dĩ có tình yêu. Dù
yêu đơn phương vẫn có “đối
tượng”. Tình yêu cũng có hệ
lụy tất yếu. Có tình yêu thì
có thể dẫn tới nhiều hệ lụy
khác. Nhưng con người luôn bất
toàn, bất túc, bất trác,…
“bất” đủ thứ! Cố NS Trịnh
Công Sơn tâm sự: “Ngày
mai em đi, biển nhớ tên em gọi về…”.
Ông không gọi mà biển gọi, biển
nhớ em chứ ông không nhớ. Nhưng
thật ra chính ông lại đang rất…
nhớ. Bất toàn là thế, con người
là vậy, loanh quanh mãi vẫn không ra
khỏi chính mình!
Thiên
Chúa quá yêu chúng ta, yêu đến
điên cuồng, yêu đến chịu
chết, thế mà chúng ta vẫn bỏ
rơi Ngài, phụ tình Ngài một
cách trắng trợn. Chắc chắn Ngài
cũng rất nhớ chúng ta, nhưng chúng
ta lại quá đỗi vô tâm!
Phàm
nhân là tội nhân, nghĩa là bất
toàn. Câu nói “nhân vô thập
toàn” quá quen thuộc, quen đến
nỗi hóa… bình thường –
nghĩa là “không còn quan trọng
hóa” nữa. Thế nhưng câu đó
lại rất quan trọng, quan trọng vì…
“quá bình thường”. Nghe chừng
nghịch lý, nhưng không hề nghịch
lý chút nào, gọi là
nghịch-lý-thuận.
Một
hôm, khi ông Phêrô bước vào,
ông Conêliô liền ra đón và
phủ phục bái lạy dưới chân
ông Phêrô. Nhưng ÔNG PHÊRÔ
ĐỠ ÔNG ẤY LÊN và nói: “Xin
ông đứng dậy, vì BẢN THÂN
TÔI ĐÂY CŨNG CHỈ LÀ NGƯỜI
PHÀM”
(Cv 10:25-26). Đó là phong-cách-bình-thường
mà lại quan trọng và cần thiết,
biết mình và biết người, giản
dị như bản chất của một ngư
dân, nhưng chính con-người-bình-thường
ấy đã được Thiên Chúa
cất nhắc và giao trọng trách là
trở thành giáo hoàng tiên khởi:
chăn cả chiên mẹ và chiên con (x.
Ga 21:15-19). Có CHỨC TƯỚC thì cũng
mặc nhiên có NHIỆM VỤ kèm theo.
Chức vụ là để phục vụ chứ
không để hưởng nhàn mà ung
dung nhận bổng lộc (x. Mt 20:28; Ga 12:26).
Không
còn nhát đảm như trước, ông
Phêrô mạnh dạn lên tiếng xác
định: “Quả
thật, tôi biết rõ Thiên Chúa
không thiên vị người nào. Nhưng
hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn
ngay ở lành, thì dù thuộc bất
cứ dân tộc nào, cũng đều
được Ngài tiếp nhận”
(Cv 10:34-35). Một cách mô tả mộc mạc
và dễ hiểu về Thiên Chúa, nhưng
vẫn hoàn toàn chính xác. Thiên
Chúa chí công, không thiên vị,
nhưng đôi khi chúng ta “ép buộc”
Ngài thiên vị như chúng ta, vì
chúng ta làm gì cũng thường theo
định kiến cá nhân nhiều hơn,
và tự cho rằng Thiên Chúa cũng
thế.
Trong
khi ông Phêrô còn đang nói những
điều đó thì Thánh Thần ngự
xuống trên tất cả những người
đang nghe lời Thiên Chúa. Phép lạ
hiển nhiên, nhãn tiền. Vì thế,
những tín hữu thuộc giới cắt bì
cùng đến đó với ông Phêrô
đều kinh ngạc vì thấy Thiên Chúa
cũng ban Thánh Thần xuống trên cả
các dân ngoại nữa, bởi họ nghe
những người này nói các thứ
tiếng và tán dương Thiên Chúa.
Thiên Chúa không thiên vị, tất
nhiên Ngôi Ba cũng không chút thiên
vị, vì Chúa Thánh Thần xuống
trên mọi người – kể cả dân
ngoại.
Sau
đó, ĐGH Phêrô đặt vấn
đề: “Những
người này đã nhận được
Thánh Thần cũng như chúng ta, thì
ai có thể ngăn cản chúng ta lấy
nước làm phép rửa cho họ?”
(Cv 10:47). Ai đến với Chúa đều
được Ngài tiếp nhận, chắc
chắn vậy. Và rồi ông Phêrô
đã truyền làm phép rửa cho họ
NHÂN DANH ĐỨC GIÊSU KITÔ. Là
người khôn ngoan, khi làm bất cứ
điều gì cũng phải nhân danh Chúa,
vì tất cả chúng ta đều là
huynh đệ và hoàn toàn phải nhờ
Ngài: “Không
có Thầy, anh em chẳng làm gì được”
(Ga 15:5). Nhưng nhiều khi chúng ta xin mà
không nhân danh Đức Kitô, có lẽ
chúng ta quên điều này: “Bất
cứ điều gì anh chị em nhân danh
Thầy mà xin thì Thầy sẽ làm,
để Chúa Cha được tôn vinh nơi
người Con”
(Ga 14:13). Chính Vị Thiên-Chúa-toàn-năng
ấy đã được Thánh Vịnh
gia mô tả thế này: “Ngài
là Thiên Chúa nhân hậu từ bi,
Ngài chậm giận, lại giàu tình
thương và lòng thành tín”
(Tv 86:15). Thật tuyệt vời biết bao khi chúng
ta có Vị Thiên Chúa đại lượng
như vậy!
Chắc
chắn rằng tất cả chúng ta đều
là những con người bất toàn, chỉ
có Thiên Chúa là Đấng toàn
thiện và toàn năng. Bác học
Albert Einstein xác định: “Trước
mặt Thiên Chúa, tất cả chúng ta
đều khôn ngoan và ngu xuẩn như
nhau”.
Nhưng chúng ta vẫn được yêu
thương lắm, yêu thương mỗi
chúng ta như chính con người của
chúng ta. Vì thế, chúng ta phải “hát
lên mừng Chúa một bài ca mới,
vì Ngài đã thực hiện bao kỳ
công” (Tv 98:1a). Kỳ công của Chúa
vô vàn, khôn xiết kể, “Ngài
chiến thắng nhờ bàn tay hùng mạnh,
nhờ cánh tay chí thánh của Ngài”
(Tv 98:1b). Thiên-Chúa-chí-minh-và-chí-công
đã “biểu dương ơn Ngài
cứu độ, mặc khải đức công
chính của Ngài trước mặt chư
dân; Ngài đã nhớ lại ân
tình và tín nghĩa dành cho nhà
Ít-ra-en” (Tv 98:2-3a). Toàn cõi đất
này đã xem thấy ơn cứu độ
của Thiên Chúa chúng ta. Cho nên:
“Hãy tung hô Chúa, hỡi toàn
thể địa cầu, mừng vui lên, reo hò
đàn hát” (Tv 98:4).
Nhân
danh tình yêu Thiên Chúa, Thánh
Gioan căn dặn: “Chúng
ta hãy yêu thương nhau, vì tình
yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa”
(1 Ga 4:7a), đồng thời giải thích:
“Phàm
ai yêu thương thì đã được
Thiên Chúa sinh ra, và người ấy
biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương
thì không biết Thiên Chúa, vì
Thiên Chúa là tình yêu”
(1 Ga 4:7b-8). Tình yêu của Thiên Chúa
đối với chúng ta được biểu
lộ như thế này: “Thiên
Chúa đã sai Con Một đến thế
gian để nhờ Con Một của Ngài mà
chúng ta được sống” (1
Ga 4:9). Đức Kitô đã chết không
chỉ cho chúng ta được sống mà
còn sống dồi dào.
Người-môn-đệ-Chúa-yêu
là người có “máu yêu”
nên luôn thích nói về tình
yêu. Chính người môn đệ ấy
lý giải: “Tình
yêu cốt ở điều này: không
phải chúng ta đã yêu mến Thiên
Chúa, nhưng chính Ngài đã yêu
thương chúng ta, và sai Con của Ngài
đến làm của lễ đền tội
cho chúng ta”
(1 Ga 4:10). Nói đến tình yêu, đặc
biệt là tình yêu Chúa, Thánh
Tâm Chúa hoặc Lòng Chúa Thương
Xót, chẳng bút giấy nào tả
hết, chẳng bộ óc nào đủ
thông minh để trình bày hết ý,
có nói mãi cũng không thể lột
tả đúng mức. Nhiệm mầu biết
bao!
Nhưng
thật kỳ lạ, Chúa Giêsu nói rất
dễ hiểu: “Chúa
Cha đã yêu mến Thầy thế nào,
Thầy cũng yêu mến anh em như vậy.
Anh em hãy ở lại trong tình thương
của Thầy”
(Ga 15:9). Chắc hẳn Thánh Augustinô đã
cảm nhận sâu sắc tình yêu ấy
nên mới có thể có cách nói
độc đáo này: “Mức
độ yêu mến Chúa là yêu mến
vô hạn”.
Vì không chỉ Chúa muốn mà
chúng ta có trách nhiệm phải “yêu
mến Chúa hết linh hồn và hết
trí khôn”. Yêu Chúa là yêu
tha nhân, yêu tha nhân là thước
đo lòng mến Chúa. Nếu yêu như
vậy, chúng ta chỉ lời chứ không
hề lỗ: “NẾU
anh chị em GIỮ các điều răn của
Thầy, anh chị em sẽ Ở LẠI trong tình
thương của Thầy, như Thầy đã
GIỮ các điều răn của Cha Thầy
và Ở LẠI trong tình thương của
Ngài”
(Ga 15:10). Ôi chao, một điều kiện rất
dễ chịu!
Thật
vậy, Ngài muốn chúng ta “được
hưởng niềm vui của Ngài” để
“niềm vui của chúng ta được
nên trọn vẹn” (Ga 15:11). Điều răn
của Ngài rất đơn giản, tuy hai mà
một, là luật-yêu-hai-trong-một: “Hãy
yêu thương nhau như Thầy đã
yêu thương anh em” (Ga 15:12). Chúa
Giêsu so sánh: “KHÔNG
CÓ TÌNH THƯƠNG NÀO CAO CẢ HƠN
TÌNH THƯƠNG CỦA NGƯỜI ĐÃ
HY SINH TÍNH MẠNG VÌ BẠN HỮU CỦA
MÌNH”
(Ga 15:13). Hai người yêu nhau là hai người
đồng đẳng, Chúa yêu chúng
ta và Ngài cũng coi chúng ta ngang hàng:
“Anh
chị em là bạn hữu của Thầy”
(Ga 15:14a), nhưng với điều kiện: “Nếu
anh chị em THỰC HIỆN những điều
Thầy truyền dạy”
(Ga 15:14b). Việc làm chứng tỏ khả
năng, chỉ có thể là như thế,
nói chưa tin được.
Tất
cả chúng ta đều là tội nhân.
Là tội nhân mà được tha thứ
là may phước lắm rồi, thế mà
chúng ta lại còn được Chúa
gọi là bạn hữu: “Thầy
không còn gọi anh chị em là tôi
tớ nữa, vì tôi tớ không biết
việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh
chị em là bạn hữu, vì tất cả
những gì Thầy nghe được nơi
Cha Thầy, Thầy đã cho anh chị em biết.
Không phải anh chị em đã chọn
Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn
anh chị em, và cắt cử anh chị em để
anh chị em ra đi, sinh được hoa trái,
và hoa trái của anh chị em tồn tại,
hầu tất cả những gì anh chị em
xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy thì
Ngài ban cho anh chị em”
(Ga 15:15-16). Ơn cao phúc trọng dành cho
chúng ta, đó là điều quá
kỳ diệu, trên cả tuyệt vời, và
tất nhiên chúng ta quá may mắn và
quá hạnh phúc!
Cuối
cùng, Chúa Giêsu nhấn mạnh và
nhắc lại: “Điều
Thầy truyền dạy anh em là HÃY YÊU
THƯƠNG NHAU”
(Ga 15:17). Có thể tóm gọn mệnh lệnh
đó thành một chữ YÊU. Cũng
thật kỳ lạ, mẫu tự Y có hình
người dang đôi tay tạo dáng cây
Thập Tự. Điều đó có thể
coi như “phần cứng” đã được
cài đặt mặc định từ muôn
thuở. Thật kỳ diệu và tuyệt vời
biết bao!
Chúa
Giêsu luôn nói tới tình yêu,
như một điệp khúc cứ nhắc đi
nhắc lại, và chính Ngài đã
thiết lập Luật Yêu – nghiêm túc
và dứt khoát, đồng thời cũng
là điều kiện để được
trở thành công dân Nước Trời
mãi mãi.
Lạy
Thiên Chúa từ bi và nhân hậu,
xin xót thương và tha thứ. Nhờ
Lòng Thương Xót của Ngài lớn
hơn tội lỗi của cả nhân loại
mà chúng con được diễm phúc
dìm mình trong Tình Yêu bao la và
kỳ diệu của Ngài, hôm nay và
mãi mãi. Xin giúp chúng con đừng
bao giờ lợi dụng Tình Ngài, và
xin giúp chúng con chứng minh đức mến
qua việc yêu thương lẫn nhau thật
lòng. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh
Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ
nhân loại. Amen
TRẦM
THIÊN THU
|