Bình an trong Giáo hội
(Suy niệm của Peter Feldmeier - Lm. Văn Hào
SDB, chuyển ngữ)
Trong khắp miền Giuđê, Galilê và Samari, Hội
thánh được bình an (Cv 9,31)
Năm 2001, Hồng y Walter Kasper và Hồng y
Joseph Ratzinger có một cuộc tranh luận sôi nổi
nhưng thân tình về bản chất của Giáo hội. Cuộc
tranh luận thần học này đã được
đăng tải rộng rãi trên các tạp chí. Hồng y
Ratzinger biện luận về tính ưu việt của Giáo
hội hoàn vũ so với các giáo hội địa
phương. Ngài lập luận, ngay từ ban đầu,
chúng ta đã thấy rất rõ điều ấy. Hồng y
Kasper thì lại thách thức với những lập luận
khác. Ngài cho rằng tư tưởng này khá giống với
thuyết duy tưởng của Platon. Theo Ngài, Giáo hội
hiện hữu như một thực thể thiêng liêng
nhưng Giáo hội chỉ thực sự trở nên hữu
hình trong thế giới hôm nay qua những cộng đoàn
địa phương cách cụ thể. Hồng y Kasper lý
luận rằng các cộng đoàn giáo hội địa
phương chính là nền tảng cho sự hiện hữu
của giáo hội toàn cầu. Cuộc tranh luận này không
chỉ nói về giáo hội sơ khai, nhưng liên quan đến
vấn nạn nêu ra là: Quyền bính giáo hội hiện tại
nằm ở đâu, đến từ nơi nào và quyền
bính đó được thực thi ra sao.
Những trích dẫn từ Thánh Kinh nghiêng về
lập luận của hồng y Kasper nhiều hơn, ít nhất
qua việc sử dụng các từ ngữ. Thánh Luca trong
sách Tông đồ Công vụ, đã dùng hạn từ “giáo hội”
, và trong những lần đó, có 18 lần Ngài ám chỉ về
giáo hội địa phương. Nhưng chỉ có một
trường hợp duy nhất, Luca nói về giáo hội với
tính phổ quát, đó là trong bài đoc phụng vụ hôm
nay: “Trong khắp mọi nơi, từ Giuđêa, Galilê và Samaria,
hội thánh được bình an.”
Khi tôi nhìn vào giáo hội toàn cầu hiện
nay, tôi không thấy có sự bình an mà mọi người
đều mong ước. Ngay cả tại giáo hội
địa phương nơi tôi sinh sống cũng vậy.
Giáo phận tỏ vẻ hơi khó chịu với cộng
đoàn địa phương tại đại học
này, vì đa phần thuộc giới trí thức. Làm cách nào
chúng ta có thể trở về với ý nghĩa sâu xa của
sự bình an thời giáo hội sơ khai. Nói thẳng ra,
chúng tôi ở đây không thể kiến tạo sự an
bình thật sự, ít nhất về một vài phương
diện nào đó. Nếu chúng ta đọc lại các
thơ của thánh Phaolô, chúng ta cũng thấy vấn đề
giống như thế. Ngài rất nhiều lần bình phẩm
về giáo hội tại các địa phương và ngay cả
khi nói về giáo hội phổ quát, Ngài cũng đã phàn nàn
giống như thế. Ví dụ, Phaolô đã phê phán Phêrô
như một kẻ giả hình ở Antiokia (Gal 2,11.14). Ngài
khiển trách các Kitô hữu ở Galát không nhìn nhận vai
trò của Ngài trong việc loan báo Tin mừng (Gal 1,8). Ngài
trách cứ cộng đoàn Côrinthô vì tình trạng lộn xộn
và chia rẽ (1 Cor 11,17;12,31.) Thánh Phaolô nói thẳng là có một
vài đồng nghiệp rao giảng Tin mừng với những
động cơ xấu xa như ganh tị hay tranh chấp
(Phil 1,15). Ngài nài xin các tín hữu phải sống huynh đệ,
một lòng một trí, đừng vì ganh tị hay ghen ghét hoặc
tìm hư danh.( Phil 2,1.5). Cuối cùng, Ngài cũng nhắc nhở
đùng ai coi thường Ngài, coi Ngài như thua kém các vị
tông đồ khác (2 Cr 12,11). Những vấn đề
Phaolô nêu ra, có những nét tương đồng như giáo
hội hiện nay, theo như tôi được biết.
Thánh Luca trình bày một Giáo hội lý tưởng
hơn là một Giáo hội với những lộn xộn
và bất an mà chúng ta dễ thấy. Tuy nhiên, không phải vì
thế mà Luca cảm thấy toại nguyện hoàn toàn. Ở
đây, Luca chỉ muốn vạch hướng về lý
tưởng mà giáo hội phải vươn tới. Ngài
nói rằng, chúng ta vẫn có thể trải nghiệm bình an
thực sự ngay cả khi chúng ta bị bách hại từ
bên ngoài và gặp cả những sóng gió từ bên trong. Thật
thú vị, khi chúng ta khám phá ra rằng đoạn văn
trích từ sách Tông đồ công vụ mà Giáo hội đọc
trong phụng vụ hôm nay diễn tả cuộc gặp gỡ
giữa thánh Phaolô và những người Do thái có uy tín theo
văn hóa Hy lạp tại Giêrusalem. Họ là đại biểu
của giới lãnh đạo Giáo hội lúc bấy giờ,
giáo hội địa phương ở Giêrusalem và cả
Giáo hội toàn cầu nói chung (Cv 9,29 ). Kinh qua những cuộc
bắt bớ và sát hại, họ tỏ ra rất dè dặt
và thận trọng khi nói chuyện với Phaolô. Barnaba bảo
đảm cho họ rằng Phaolô là người thuộc bọn
họ chứ không phải kẻ thù. Ngài bênh vực Phaolô,
và chúng ta thấy Phaolô dần dần đi lại dễ
dàng giữa họ.Chính xác hơn, như sách Tông đồ
công vụ thuật lại, Ngài đi ra đi vào cùng với
họ. Đây là dấu chỉ của sự tương
giao bằng hữu. Mối thân tình này có được
nơi chúng ta, là phát nguyên sâu xa trong Đức Kitô. Trong bài
Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu nói Ngài là cây nho, các môn
đệ là cành nho. Ngài nhắc nhở rằng nếu tách
lìa khỏi Ngài,chúng ta sẽ bị khô héo và sẽ chết.
Ngược lại, cùng với Ngài và qua Ngài, chúng ta sẽ
triển nở và trổ sinh hoa trái.
Nếu chúng ta muốn Giáo hội được
bình an, chúng ta phải cảm tạ Chúa, cũng như phải
biết ơn các vị lãnh đạo trong Giáo hội. Các
Ngài được trao phó trách nhiệm một cách hợp
pháp và cũng là những người được Chúa
đặt lên để nâng đỡ chúng ta. Chúng ta cần
những tín hữu biết quan tâm lo lắng cho anh chị
em mình, như là những bề trên được Chúa cắt
đặt, sẵn sàng đối đầu với những
thách đố, giống như Thánh Phaolô. Chúng ta cũng cần
những con người như Barnaba là những vị lãnh
đạo trung tín, biết cách khôn khéo để liên kết
anh chị em lại với nhau. Nhưng trên hết, chúng ta
cần phải nhận thức rằng mọi người
chúng ta đều đang sống cuộc sống thực sự
trong Đức Kitô, như cành nho dính kết vào cây nho.
Công đồng Vat II đã dạy rằng
“Chúng ta là một Giáo hội duy nhất gồm các Giáo hội
địa phương. Tính đơn nhất và tính đa
dạng đều góp phần diễn tả đời sống
của chúng ta trong Thần khí. Thực hiện cả hai chiều
kích này: tính phổ quát toàn cầu và tính cá biệt của
các cộng đoàn địa phương, Hội thánh sẽ
vươn đạt đến sự bình an thực sự.
|