Đức
tin và bình an
(Suy niệm của Giacôbê Phạm Văn
Phượng, OP)
Bài Tin Mừng kể lại hai lần Chúa
Kitô Phục sinh hiện ra với các tông đồ: lần
thứ nhất vào chính ngày Phục sinh, lúc đó vắng mặt
ông Tôma, lần thứ hai, sau đó tám ngày, lần này có mặt
ông Tôma. Mục đích Chúa hiện ra là để
minh chứng cho các môn đệ thấy chắc chắn
Ngài đã sống lại thực sự. Bài Tin Mừng
này có hai câu nói của Chúa Giêsu rất đáng chú ý và suy
nghĩ: Câu thứ nhất Chúa nói với ông Tôma: “Phúc
thay những người không thấy mà tin”, đây
cũng là điều Chúa muốn nói với chúng ta, những
người đang sống xa biến cố Phục sinh cả
hơn hai ngàn năm, chúng ta không thấy Chúa Kitô Phục
sinh, nhưng chúng ta vẫn tin, tin mạnh mẽ, tin vững
chắc. Câu thứ hai là lời chào và cũng là lời cầu
chúc của Chúa Kitô Phục sinh cho các môn đệ: “Bình
an cho anh em”, đây cũng là điều
Chúa muốn ban cho chúng ta và chúng ta cũng luôn cầu xin Chúa.
Chúng ta thấy lúc đầu ông Tôma tỏ ra
một thái độ cứng lòng, khó tin những điều
các bà đạo đức, các bạn tông đồ kể
lại, ông cho là ảo tưởng, không đáng tin, ông nói:
“Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người,
nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt
bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có
tin”. Chúa rất nhân từ và nhẫn nại,
Ngài vui lòng chờ đợi qua tám ngày rồi mới hiện
ra để thỏa mãn những yêu sách quyết liệt của
ông. Trước bằng chứng quá hiển nhiên ấy,
ông phục xuống và kêu lệnh: “Lạy Chúa của con, lạy
Thiên Chúa của con”. Theo cha Larăng, một học giả
Kinh Thánh nổi tiếng, đây là lần thứ nhất
Chúa Giêsu được gọi bằng danh hiệu “Thiên
Chúa” rõ rệt, cho nên, đây là một tác động đức
tin hoàn toàn và quyết liệt sau một thời gian hoài nghi
và từ khước. Tác động đức tin này có giá
trị, vì thực sự Tôma đã vượt qua hình dáng
bên ngoài để đi tới thực tại tiềm ẩn:
mắt ông chỉ nhìn nhìn thấy con người Chúa Giêsu, tay ông chỉ sờ tới những vết
thương hữu hình, nhưng ông tuyên xưng Chúa là Thiên
Chúa của ông.
Lúc ấy Chúa phán một câu mà muôn đời
sẽ suy niệm và trở nên nguồn an
ủi, phấn khởi cho mọi thế hệ về sau:
“Phúc thay những người không thấy mà tin”. Phán câu ấy
Chúa có ý nhằm đến chúng ta ở thế kỷ XXI này
và muôn thế hệ sau nữa, là những người không
được đặc ân chiêm ngưỡng dung nhan nhân
loại của Chúa, không được đặc ân nghe tiếng
Ngài, đụng chạm tới thân xác thánh thiện của
Ngài, nhưng chúng ta tin Ngài dựa vào bằng chứng của
các tông đồ, thế giá của Kinh thánh và lời Giáo Hội
giảng dạy, ai tin qua đó là có phúc. Chúng ta có thể nói
như thánh Ghêgôriô: “Ngón tay đa nghi của thánh Tôma đã trở
nên ông thầy của toàn thể thế giới, bàn tay
đa nghi của thánh Tôma đã dạy cho con người một
sự thật rất chắc chắn, đó là thân xác Phục
sinh của Chúa Kitô”. Chúng ta tin chắc như thế, chúng ta
sẽ là người có phúc: phúc cho chúng ta, dù không thấy,
chúng ta vẫn tin.
Đàng khác, ngay khi hiện đến với
các tông đồ, cả hai lần, lời nói đầu
tiên của Chúa là: “Bình an cho anh em”, lời
cầu chúc đó được Chúa nói tới ba lần,
đối với các môn đệ lúc ấy thật ý
nghĩa và cần thiết. Quả thực, các ông đã bỏ
mọi sự đi theo Chúa, nhưng ngờ
đâu, “công chưa thành, danh chưa toại”, mới
được 33 tuổi, vị thầy của các ông
đã bị giết chết như một nhà cách mạng
thất bại, và bây giờ đang nằm yên trong mộ
đá. Chúa chết, các môn đệ “tay trắng
vẫn hoàn tay trắng”. Hơn nữa, giờ đây
các ông còn phải sống chui lủi trong cảnh “sảy
đàn tan nghé”, như rắn mất đầu: thấp thỏm,
hoang mang, lo sợ, các ông sợ tất cả mọi người,
nên đã im hơi lặng tiếng, tụ tập nhau trong
căn phòng cửa đóng then cài. Giữa lúc đó, Chúa hiện
đến và chúc bình an, còn gì quý bằng, đang hoang mang,
chán nản, sợ hãi, các ông được gặp Chúa và
được Chúa ban cho điều các ông đang cần,
đó là bình an. Ơn lộc đó Chúa cũng đang muốn
dành cho chúng ta hôm nay.
Theo Hán tự, chữ “bình” có nghĩa là bằng
phẳng, đều hòa, hòa hợp, thoải mái, chữ
“an”, theo cách viết là “người nữ ở trong nhà”, có
nghĩa là được bảo vệ, an toàn. Như vậy,
bình an nói lên trạng thái tâm hồn, trạng thái nội tâm thư thái, an hòa, vui tươi, bình thản,
vững chắc. Do đó, bình an khác với hòa bình, hòa bình
nói lên trạng thái bên ngoài: không còn cạnh tranh, không còn chinh
chiến, xô xát, súng đạn, gươm đao, cho nên có
khi có hòa bình nhưng không có bình an, nhân loại thì khao khát hòa
bình, còn mỗi người thì khao khát bình an.
Sống ở trần gian, ai cũng phải
trải qua những giây phút lo âu: về tương lai, gia
đình, con cái, tiền bạc, công ăn việc làm, sức
khỏe… những lo ấu ấy như một chất thuốc
độc tác hại vào tâm hồn và cướp đi những
niềm vui trong lành, những giấc ngủ bình yên, khiến
chúng ta luôn băn khoăn, khắc khoải, cố gắng
tìm mọi cách để giải thoát mình khỏi những
lo âu, và như thế có phải là chúng ta rất cần sự
bình an không? Sự bình an đó do Chúa ban và
cũng là cố gắng của mỗi người.
Chúng ta hãy tin tưởng và phó thác cuộc
đời cho Chúa để bản thân chúng ta tìm thấy sự
bình an, đồng thời hãy cố gắng sống tốt
đẹp, chúng ta sẽ cảm thấy bình an. Đàng khác,
nếu chúng ta chưa đem lại bình an cho ai, thì chúng ta
đừng cố tình làm mất bình an của họ bằng
lời nói hay việc làm lỗi bác ái của chúng ta. Xin Chúa
ban bình an cho chúng ta và xin Chúa cho chúng ta là
“khí cụ bình an của Chúa” cho mọi người.
|