Chuyện thưởng phạt
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn
Nghĩa)
Chúa hạ con xuống rồi Người
lại nâng con lên. Chúa dìm con xuống hố sâu và
Người lại nhấc con lên…Bàng bạc đâu đó
cái ý tưởng này trong các lời ca, trong nhiều cái nhìn
tu đức và cả trong một vài kiểu cách diển
tả của Thánh Kinh, đặc biệt là Cưụ
Ước. Khi dân được tuyển chọn bất
trung, phản bội, Thiên Chúa trừng phạt dân, thông
thường bằng cách đày ải dân vào kiếp nô
lệ ngoại bang để bày tỏ cơn thịnh
nộ. Nhưng rồi sau đó Người lại
giải thoát dân để bày tỏ lòng thương xót.
Lời mạc khải là Lời của Thiên
Chúa, nhưng lại được trình bày bằng ngôn
ngữ nhân loại, qua những con người cụ
thể của một thời gian, không gian, nền văn
hoá nhất định. Chắc chắn khó có thể tránh
khỏi chuyện gán cho Thiên Chúa những tâm tình, ý nghĩ,
đường lối, cung cách hành xử mang đậm
nét con người. Vì thế chuyện “suy bụng ta ra
bụng người” một cách nào đó vẫn bàng
bạc ít nhiều trong các trang Kinh Thánh.
Thiên Chúa đày ải và lại giải phóng
dân để dân không chỉ để cho dân nhận ra
quyền năng và tình yêu của Người mà còn
để dân phải gắn bó, trung thành với
Người ư? Không lẽ chuyện vừa đấm vừa
xoa, chuyện kế sách “cây gậy và củ cà rốt”,
chuyện dìm người ta xuống nước cho gần
chết ngạt rồi sau đó thả tay ra cho
người ta hít thở để người ta rối
rít cám ơn mình… cũng là “chuyện tình” giữa Thiên Chúa
với nhân loại ư? Chắc chắn tuyệt
đối không phải thế. Nếu giả như Thiên
Chúa cũng hành xử với con người theo kiểu
cách mà nhiều nhà cầm quyền khôn ranh, hay nhiều
thể chế độc tài gian ác đã hành xử thì
Người chỉ đáng cho chúng ta kính sợ hay kinh
sợ mà không bao giờ đáng được kính mến.
Để có cái nhìn tương đối khá
chính xác và “gần” chân lý hơn, thiết tưởng không
gì hơn hãy lắng nghe những lời do miệng Con Thiên
Chúa làm người phán: “Thiên Chúa yêu thế gian đến
nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của
Người thì khỏi phải chết, nhưng
được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên
Chúa sai Con của Người đến thế gian, không
phải để lên án thế gian, nhưng là để
thế gian nhờ Con của Người, mà
được cứu độ.” ( Ga 3,15 ).
1. Thiên Chúa không phải là tác giả của
sự dữ. Là Đấng toàn thiện, nên sự dữ
không thể và không bao giờ do Thiên Chúa gây ra. Thế mà con
người rất nhiều khi gặp phải sự
dữ thì lại gán ghép cho Thiên Chúa. Xưa kia, khi đi trong
hoang địa, dân Chúa đã phản loạn và khi rắn
lửa bò ra cắn chết nhiều người thì
người ta cho rằng Thiên Chúa trừng phạt họ
bằng cách “cho” rắn bò ra cắn chết họ. Cái ý
nghĩ về chuyện “trời phạt” đã từng có
trong tâm thức của con người xưa nay. Nhờ
lời mạc khải, đặc biệt là lời hoàn
hảo của Đấng Cứu độ, chúng ta mới
biết rằng Thiên Chúa không phải là ông thần thích báo
thù hay trừng phạt. Tuy nhiên, có nhiều lúc Người
lại “để” cho sự dữ xảy ra mà không ra tay
ngăn cản để cảnh tỉnh con ngưòi về
tình trạng tội lỗi của họ hoặc
để thanh luyện tình yêu của họ đối
với Người, giúp họ ngày càng yêu mến
Người cách vô vị lợi và chân thành hơn.
Không kể những sự dữ mang tính
mầu nhiệm mà ta không thể suy thấu, thì có thể
nói hầu hết các sự dữ xảy ra là do hậu
quả của tội lỗi của con người gây ra
cho nhau hay cho chính bản thân mình. Con người ta, khi
“chẹt chân thì dễ há miệng” và “hữu sự thì
dễ vái tứ phương”. Như thế, những
sự dữ vẫn có đó ý nghĩa của nó với
kiếp người chúng ta. Những sự khốn khó
ở đời này vẫn còn đó vai trò của
người thầy dạy giỏi. Cho dù đôi khi cái khó
bó cái khôn, nhưng sự thường thì “gian nan rèn nhân
đức”. Dưới khía cạnh nhân bản thì gian
khổ là cơ hội giúp ta rèn luyện sự nhẫn
nại, sự bền chí…còn dưới chiều kích
đức tin, thì gian khổ giúp ta biết khiêm nhu và tín thác
vào tình yêu và của Thiên Chúa. Thánh Tông đồ dân ngoại
khẳng định: “Quả vậy, chính do ân sủng và
nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây
không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ
của Thiên Chúa; cũng không phải bởi việc anh em
làm, để không ai có thể hãnh diện.” ( Ep 2,8-9 )
2. Thiên Chúa là Đấng đầy lòng xót
thương. Có thể nói đây là ý chính của phần
Phụng Vụ lời Chúa mà Hội Thánh dọn cho chúng ta
trong Chúa nhật IV Mùa Chay B này. Trong cảnh tha hương
lưu đày, dân Chúa xưa luôn hướng về
Đền thánh Giêrusalem. Khi bày tỏ nổi lòng của dân:
“Giêrusalem, lòng này nếu quên người thì lưỡi
xướng ca sẽ dính với hàm” ( Tv 136 ), tác giả
Thánh Vịnh mời gọi dân suy đến tấm lòng
của Thiên Chúa. Các sứ ngôn sau khi cảnh báo dân về
tội phản nghịch của họ cùng với các hình
phạt sẽ phải hứng chịu thì liền sau đó
thường bày tỏ lòng xót thương vô bờ của
Thiên Chúa. “ Ta sẽ chữa chúng khỏi tội bất
trung, sẽ yêu thương chúng hết tình, vì cơn
giận của Ta sẽ không còn đeo đuổi chúng” ( Hs
14,5 ). Cố nhạc sĩ họ Trịnh đã từng ca
thán: “Chúa đã bỏ loài người. Phật đã bỏ
loài người”. Thế nhưng Kinh Thánh khẳng
định rằng dù cho có người mẹ nào nhẫn
tâm bỏ con mình đi nữa thì Thiên Chúa sẽ chẳng bao
giờ bỏ loài người. Thánh Phaolô nói với tín
hữu Ephêsô: “Thưa anh em, Thiên Chúa giàu lòng thương xót
và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã
chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta
được cùng sống với Đức Kitô” ( Ep 2,4 ).
Thiên Chúa không thể bỏ con người.
Một lời khẳng định xem ra khá hàm hồ,
nhưng thật chính xác vì “Thiên Chúa không thể chối
bỏ chính Người, vì Người là Tình Yêu ( x.1Ga 4,8 ).
Dù trời cao hay đất thấp, dù thiên thần hay thiên
phủ…không
có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa,
trong Đức Kitô Giêsu ( x.Rm 8,39 ). Như thế, nếu
chúng ta vẫn chìm trong bóng tối thì chính chúng ta phải
chịu trách nhiệm vì đã khước từ ánh sáng.
Thiên Chúa là Đấng ân thưởng. Và chính
chúng ta là những người luận phạt. Nếu chúng
ta chọn ánh sáng tức là tin vào Chúa Giêsu và sống theo
lời của Người thì chúng ta được Thiên
Chúa ân thưởng. Trái lại nếu chúng ta chối
từ Chúa Kitô thì chúng ta, chứ không ai khác, là người
kết án, luận phạt chính bản thân mình.
|