Suy
Niệm Chúa Nhật IV Mùa Chay – Năm
B
Lịch
sử cứu độ là lịch sử Tình
yêu của Thiên Chúa đối với
loài người. Đó là tình
yêu tạo dựng, tình yêu quan phòng
và tình yêu cứu chuộc. Thật
vậy, vì yêu nên Thiên Chúa đã
tạo dựng nên con người. Vì yêu
nên Ngài đã tạo dựng mọi
sự để cho con người cai quản và
sử dụng. Vì yêu nên Ngài đã
không chấp tội con người, trái
lại đã ban chính Con Một của
mình để cứu chuộc nhân loại.
Tin mừng hôm nay khẳng định: “Thiên
Chúa yêu thương thế gian đến
nỗi đã sai Con Một Mình, ngõ
hầu những ai tin vào Ngài sẽ không
phải chết nhưng sẽ được sống
đời đời”(Ga
3,15). Trong bài đọc II, Thánh Phaolô
cũng cho biết : “Thiên
Chúa giàu lòng thương xót và
rất mực yêu mến chúng ta, nên
dầu chúng ta đã chết vì sa ngã,
Người cũng đã cho chúng ta được
cùng sống với Đức Ki-tô. Chính
do ân sủng mà anh em được cứu
độ! Người đã cho chúng ta
được cùng sống lại và cùng
ngự trị với Đức Ki-tô Giê-su
trên cõi trời.”
(Ep 2,4-6). Ngài còn cho biết thêm : “Chính
do ân sủng và nhờ lòng tin mà
anh em được cứu độ: đây
không phải bởi sức anh em, mà là
một ân huệ của Thiên Chúa.”
(Ep 2,8). Cũng vì yêu nên khi xuống
trần gian, Đức Giêsu đã chọn
các Tông đồ để lập nên
Giáo hội, thiết lập các Bí
tích nhất là Bí tích Thánh
Thể để ở lại với loài người
cho đến Tận thế. Điều đặc
biệt hơn nữa là Thiên Chúa không
những yêu thế gian chung chung mà Ngài
yêu thương chăm sóc chu đáo
từng người một trong chúng ta giống
như người cha yêu thương từng
người con trong gia đình vậy.
Nhưng
con người hay phản bội, đi ngược
lại với tình yêu của Thiên Chúa.
Lịch sử dân Do Thái là một lịch
sử Tình yêu của Thiên Chúa đối
với con người, nhưng đồng thời
cũng là một lịch sử nói lên
sự phản bội của con người đối
với Thiên Chúa. Đoạn sách Sử
Biên Niên quyển thứ II được
trích đọc trong bài đọc I hôm
nay cho chúng ta thấy điều đó.
Thật vậy, dân Do thái đã sống
bất trung, bắt chước những sự ghê
tởm của dân ngoại. Họ làm dơ
bẩn đền thờ Chúa đã được
Chúa thánh hoá tại Giê-ru-sa-lem. Họ
phụ bạc với tình yêu của Thiên
Chúa, bất tuân lề luật, phá vỡ
giao ước đã ký kết với
Thiên Chúa (x. 2Sb 36,14). Hậu quả là
đền thờ và thành thánh của
họ bị sụp đỗ tan tành. Dân
chúng bị tàn sát vô số, những
người sống sót còn lại bị
đưa đi lưu đầy (x. 2Sb 36, 19-20).
Tuy
nhiên, cho dù Thiên Chúa có giận,
có ra án phạt nhưng không phải
vì ghét, vì oán thù mà nhằm
mục đích để thanh luyện, thanh tẩy
và chữa trị họ. Bằng chứng là
khi dân sai phạm, Ngài đã sai các
sứ giả đến để nhắc nhở
họ nhiều lần: “Chúa
là Thiên Chúa tổ phụ họ, đã
luôn luôn đêm ngày sai sứ giả
đến với họ, vì Người thương
xót dân Người và đền thờ
của Người.”
(2Sb 36,15). Không những thế, Ngài còn
thúc đẩy tâm hồn hoàng đế
Cyrô, vua xứ Ba-tư để nhà vua ra
lệnh truyền rao khắp đất nước,
và ban chiếu chỉ rằng: “Ðây
hoàng đế Cyrô, vua xứ Ba-tư tuyên
bố: Chúa là Thiên Chúa trời
đất đã ban cho trẫm mọi nước
trên mặt đất, và chính Người
đã ra lệnh cho trẫm xây cất cho
Người một đền thờ ở
Giêrusalem trong xứ Giuđa. Ai trong các ngươi
thuộc về dân Chúa? Thiên Chúa
sẽ ở với nó, và nó hãy
tiến lên.” (2Sb
36, 22-23).
Hình
ảnh con rắn đồng được nhắc
tới trong đoạn Tin mừng hôm nay cũng
là biểu tượng của Tình yêu
Thiên Chúa. Thật vậy, sau khi ra khỏi
đất Ai cập, dân Do Thái phải sống
ròng rã suốt 40 năm trong sa mạc, gặp
mọi thử thách gian nan. Họ phàn nàn
kêu trách Chúa vì đã để
họ phải chịu cảnh lầm than khốn
khổ. Thiên Chúa đã nổi cơn
thịnh nộ và để cho rắn lửa
cắn chết nhiều người. Họ khiếp
sợ và thống hối tội lỗi của
mình. Họ đến với Môsê và
xin ông cầu nguyện cùng Thiên Chúa
cứu giúp họ : “Chúng
tôi đã phạm tội, vì chúng
tôi đã nói phạm đến Đức
Giavê và đến ông, xin ông cầu
với Đức Giavê cho chúng tôi để
Ngài đuổi lũ rắn này xa khỏi
chúng tôi đi” (Ds
21,7). Thiên
Chúa đoái thương bảo Môsê
đúc một con rắn đồng treo lên
và hễ ai bị rắn cắn mà nhìn
lên con rắn đồng thì được
cứu thoát (x. Ds 21,8).
Con
rắn đồng là biểu tượng của
Đức Giêsu bị treo lên thập giá
và ai tin vào Đức Giêsu chịu
đóng đinh trên thập giá sẽ
được cứu rỗi. Thánh Gioan nói:
“Quả vậy,
Thiên Chúa sai Con của Ngài đến
thế gian không phải để lên án
thế gian, nhưng là để thế gian nhờ
Con của Ngài, mà được cứu
độ. Ai tin vào Con của Ngài, thì
không bị lên án; nhưng kẻ không
tin, thì bị lên án rồi, vì đã
không tin vào danh của Con Một Thiên
Chúa”(Ga
3,20). Cho nên, Thánh giá cũng là
biểu tượng của tình yêu. Vì
yêu thương nên Đức Giêsu đã
chấp nhận bước vào con đường
đau khổ, con đường thập giá.
Khi suy niệm về những hình khổ Đức
Giêsu đã chịu: đánh đòn,
đội mạo gai, vác thập giá, đóng
đinh vào thập giá…chắc chắn
không ai không nghĩ đến tình yêu
mà Đức Giêsu dành cho nhân loại.
Đó là tình yêu cao quý trên
mọi tình yêu. Chính Đức Giêsu
đã nói: “Không
có tình yêu nào cao quý hơn
tình yêu của người đã hy
sinh mạng sống vì bạn hữu của
mình.”
(Ga 15,13).
Thánh
giá cũng là biểu tượng của
sự tha thứ. Đức Giêsu đã
chịu chết trên thập giá để
cứu độ loài người, tha thứ
tội lỗi cho loài người. Chính
trên thập giá Ngài đã tha thứ
cho kẻ đóng đinh Ngài: “Lạy
Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết
việc họ làm”
(Lc 23,34). Cũng trên thập giá, Ngài
đã tha thứ cho kẻ trộm lành cùng
đóng đinh với Ngài và hứa
ban phúc Thiên đàng cho anh ta ngay ngày
hôm đó.
Và
nhờ công ơn cứu chuộc của Ngài,
Ngài muốn Giáo hội tiếp tục sự
tha thứ như thế mãi cho đến tận
thế. Câu chuyện sau đây nói lên
tinh thần đó. Chuyện kể rằng :
một lần, tại nhà thờ này có
một tội nhân đến xưng tội.
Đối với một tội nhân có quá
nhiều tội nặng như anh ta, vị Linh mục
rất nghiêm khắc và ngăm đe nhiều
điều. Nhưng chứng nào vẫn tật
đó, ra khỏi toà giải tội ít
lâu, hối nhân lại tiếp tục sa
ngã. Rất nhiều lần như thế. Cuối
cùng, vị linh mục đành răn đe:
“Tôi không
muốn anh vấp lại những tội như thế
nữa. Đây là lần cuối cùng
tôi tha tội cho anh”.
Hối nhân ra khỏi toà giải tội mà
lòng trĩu nặng và đau khổ.
Được vài
tháng sau, anh ta lại đến xưng tội,
và xưng cũng cùng những tội nặng
y như những lần trước. Vị linh mục
dứt khoát: “Anh
đừng có đùa với Chúa. Tôi
không tha”.
Thật lạ lùng. Ngay lập tức, vị
linh mục cùng hối nhân đều nghe
có tiếng thì thầm phía bên
trên. Từ cây Thánh giá, bàn
tay phải của Chúa Giêsu được
rút ra khỏi lỗ đinh và ban phép
lành cho hối nhân. Vị linh mục nghe
được tiếng thì thầm ấy nói
với chính mình: “Ta
là người đổ máu ra cho người
này chứ không phải con”.
Kể
từ đó, bàn tay phải của Chúa
Giêsu không gắn vào thánh giá
nữa, nhưng vẫn giữ tư thế đang
ban phép lành, như không ngừng mời
gọi: “Hãy
trở về với Ta, các ngươi sẽ
được tha thứ”.
(Sưu tầm)
Lạy
Thiên Chúa là nguồn tình yêu.
Xin cho mỗi người chúng con luôn cảm
nhận được tình yêu của Chúa
để chúng con biết yêu thương
tha nhân như Chúa đã yêu thương
chúng con. Amen.
Lm.
Anthony Trung Thành
|