LUẬT
VĨNH HẰNG
(Chúa
Nhật III Mùa Chay, năm B)
Văn
hào Victor Marie Hugo (1802-1885, Pháp) phân
biệt: “Đối
với nhân dân, quyền lực duy nhất
là pháp luật; đối với cá
nhân, quyền lực duy nhất là lương
tâm”.
Còn văn thi sĩ Johann Wolfgang von Goethe
(1749-1832, Đức) nói: “Có
hai sức mạnh mang đến sự yên ổn:
pháp luật và đạo đức”.
Những ý tưởng thật hay! Kinh Thánh
xác định: “Chính
nhân cầm quyền, dân mừng rỡ. Ác
nhân cai trị, dân oán than”
(Cn 29:2). Và chắc chắn chỉ có luật
Chúa là tuyệt đối, được
đề cập trong Tv 119 (rất dài, với
176 câu). Thật vậy, “Luật pháp
Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức
cho tâm hồn. Thánh ý Chúa thật
là vững chắc, cho người dại nên
khôn” (Tv 19:8).
Trong
xã hội loài người, bất cứ
một quốc gia nào, một tổ chức
nào, một gia đình nào, một nhóm
nào, dù chỉ là một “nhóm”
vài người,… cũng đều phải
có luật lệ, nội quy, quy tắc, hoặc
nguyên tắc để bảo đảm trật
tự – ở phạm vi lớn gọi là
an ninh, ở phạm vi thế giới gọi là
hòa bình. Vì con người làm hư
trật tự Thiên Chúa đã thiết
lập nên cần phải có luật để
tái lập trật tự.
Bởi
vì luật có sau con người nên
luật được lập ra cốt để
phục vụ con người, giúp xã hội
tốt hơn, gọi là “luật vị
nhân sinh” – luật vì con người,
chứ con người không câu nệ hoặc
quá lệ thuộc vào luật. Tuy nhiên,
lề luật của Thiên Chúa là Thập
Giới, tức là Mười Điều Răn.
Luật Chúa là Thánh luật, là
Thánh chỉ, là luật giao ước, là
Ý Chúa. Luật của Thiên Chúa là
luật vĩnh hằng và bất biến. Còn
luật của con người có thể thay
đổi cho phù hợp, ngay cả luật của
Giáo hội cũng thay đổi – trước
đây là SÁU Điều Răn, nhưng
nay là NĂM Điều Răn.
Xin
“mở ngoặc” nho nhỏ: Vào các
ngày Chúa nhật (và Lễ Trọng),
nhiều nơi vẫn đọc “Hội thánh
có SÁU điều răn…” thay vì
Năm Điều Răn (*). Như vậy là
không kịp cập nhật thông tin cần
thiết về giáo huấn của Giáo
hội. Trách nhiệm của ai đây? Có
những nơi đã sử dụng kinh Năm
Điều Răn Hội Thánh, nhưng kinh
Nghĩa Đức Tin (Ngày Chúa Nhật hôm
nay chúng con họp nhau kính lạy thờ
phượng Chúa…) vẫn thấy đọc
“…song phải giữ Mười Điều
Răn Đức Chúa Trời cùng SÁU
Luật Điều Hội Thánh…” chứ
không sửa là “năm”. Chuyện
nhỏ mà… không nhỏ. Lệch pha!
BIẾT
LUẬT
Cựu
Ước có đề cập Thập Giới
(Xh
20:3-17; Đnl 5:7-21). Thiên
Chúa là Đấng đã tạo dựng
con người, đồng thời trao quyền tự
do cho con người, bởi vì chính Ngài
đã “đưa dân Chúa ra khỏi
đất Ai Cập, để thoát khỏi
cảnh nô lệ” (Xh 20:2). Thoát khỏi
nô lệ là được tự do. Tự
do rất cần, mà Thiên Chúa đã
cho con người tự do, nhưng đồng thời
Ngài cũng có luật đòi hỏi
con người phải thực hành: “Ngươi
không được có thần nào khác
đối nghịch với Ta. Ngươi không
được tạc tượng, vẽ hình
bất cứ vật gì ở trên trời
cao, cũng như dưới đất thấp,
hoặc ở trong nước phía dưới
mặt đất, để mà thờ”
(Xh 20:3-4).
Các
Phúc Âm nhất lãm lặp lại Giới
Răn thứ nhất: “Ngươi
phải yêu mến Đức Chúa, Thiên
Chúa của ngươi, hết lòng, hết
linh hồn và hết trí khôn ngươi”
(Mt 22:37; Mc 12:30; Lc 10:27), hoặc như tiên tri
Samuel xác định: “Hãy
phụng thờ Đức Chúa hết lòng”
(1 S 12:20). Đó là điều răn quan
trọng nhất và điều răn thứ
nhất (Mt 22:39). Theo kinh Mười Điều Răn,
chúng ta quen đọc là “thứ nhất,
thờ phượng và kính mến Người
trên hết mọi sự”.
Tiếp
theo, Thiên Chúa nghiêm cấm: “Ngươi
không được phủ phục trước
những thứ đó mà phụng thờ:
vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của
ngươi”
(Xh 20:5a). Ngài không ngần ngại tự
nhận Ngài là “một vị thần
ghen tương” (Xh 20:5b), và Ngài nhấn
mạnh: “Đối
với những kẻ ghét Ta, Ta phạt con cháu
đến ba bốn đời vì tội lỗi
của cha ông”
(Xh 20:5c). Có phải vì Thiên Chúa đã
“ấn định” như vậy nên
ngày xưa người ta cũng “bắt
chước” mà ra luật “tru di tam
tộc” chăng?
Có
lẽ chúng ta cảm thấy cách nói
của Chúa có vẻ “gay gắt”,
nhưng thật ra không phải như vậy.
Ngài là Đấng giàu lòng thương
xót thì chắc chắn không độc
đoán, và vì yêu thương mà
Ngài hứa chắc chắn: “Những
ai yêu mến Ta và giữ các mệnh
lệnh của Ta thì Ta trọn niềm nhân
nghĩa đến ngàn đời”
(Xh 20:6). Ôi, Ngài quả là rất tâm
lý và công bằng, Ngài “bắt
buộc” về lĩnh vực này thì
Ngài lại “thưởng công” về
lĩnh vực khác. Đó là công
lý. Chính Thánh Vịnh gia đã
xác định: “Chúa
giữ gìn những ai thành tín, nhưng
thẳng tay trừng trị người ăn ở
kiêu căng”
(Tv 31:24). Thiên Chúa còn giải thích
rất rõ ràng: “Ngươi
không được dùng danh Đức
Chúa, Thiên Chúa của ngươi, một
cách bất xứng, vì Đức Chúa
không dung tha kẻ dùng danh Người một
cách bất xứng”
(Xh 20:7). Và đó chính là Giới
răn thứ hai: “Chớ
kêu tên Đức Chúa Trời vô
cớ”.
Đối
với các Giới răn từ thứ ba tới
thứ mười, trình thuật Xh 20:9-17 “liệt
kê” chi tiết: “Ngươi
HÃY nhớ ngày Sa-bát, mà coi đó
là ngày thánh. Trong sáu ngày,
ngươi sẽ lao động và làm mọi
công việc của ngươi. Còn ngày
thứ bảy là ngày Sa-bát kính
Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi.
Ngày đó, ngươi KHÔNG được
làm công việc nào, cả ngươi
cũng như con trai con gái, tôi tớ nam
nữ, gia súc và ngoại kiều ở
trong thành của ngươi. Vì trong sáu
ngày, Đức Chúa đã dựng nên
trời đất, biển khơi, và muôn
loài trong đó, nhưng Người đã
nghỉ ngày thứ bảy. Bởi vậy, Đức
Chúa đã chúc phúc cho ngày
Sa-bát và coi đó là ngày
thánh. Ngươi HÃY thờ cha kính
mẹ, để được sống lâu
trên đất mà Đức Chúa, Thiên
Chúa của ngươi, ban cho ngươi. Ngươi
KHÔNG được giết người. Ngươi
KHÔNG được ngoại tình. Ngươi
KHÔNG được trộm cắp. Ngươi
KHÔNG được làm chứng gian hại
người. Ngươi KHÔNG được
ham muốn nhà người ta, ngươi KHÔNG
được ham muốn vợ người ta, tôi
tớ nam nữ, con bò con lừa, hay bất cứ
vật gì của người ta”.
Trong tám Giới răn đó có hai cái
HÃY và bảy cái KHÔNG. Rất rõ
ràng, rất rạch ròi.
Là
Kitô hữu, ai cũng biết luật của
Thiên Chúa và luật của Giáo
hội. Biết thì phải giữ. Không
biết thì không có tội, biết mà
không giữ thì có tội (x. Ga 9:40-41).
GIỮ
LUẬT
Giữ
luật không chỉ là duy trì và
bảo vệ luật mà còn phải thi
hành – nghiêm túc chứ không lơ
là, gặp chăng hay chớ. Vô tri bất
mộ – không biết nên không yêu
thích. Ngược lại, càng hiểu biết
thấu đáo điều gì thì người
ta càng yêu quý. Hiểu biết sâu
sắc về Luật Chúa, Thánh Vịnh
gia đã vui mừng thốt lên: “Luật
pháp Chúa quả là hoàn thiện,
bổ sức cho tâm hồn. Thánh Ý
Chúa thật là vững chắc, cho người
dại nên khôn”
(Tv 19:8). Luật pháp khiến người ta
“sáng mắt” để khả dĩ
phân biệt đâu là đúng và
đâu là sai. Còn Luật Chúa khiến
“người dại hóa khôn”. Chính
các “huấn lệnh Chúa hoàn toàn
ngay thẳng” có thể “làm hoan hỷ
cõi lòng” và “mệnh lệnh
Chúa minh bạch” để làm cho “đôi
mắt rạng ngời” (Tv 19:9).
Thánh
Vịnh gia cũng chân nhận rằng “quyết
định Chúa phù hợp chân lý,
hết thảy đều công minh” nên
thực sự “quý báu hơn vàng
ròng muôn lượng” và “ngọt
ngào hơn mật ong nguyên chất” (Tv
19:10-11). Như vậy, luật làm cho người
ta hạnh phúc hơn chứ không làm
cho người ta bị gò bó, chịu lệ
thuộc hoặc đau khổ. Luật phải hợp
lòng dân, phải bắt nguồn từ yêu
thương chứ không vì tư lợi,
nếu không thì đó chỉ là
ác luật để hành dân, là
luật không hợp lý, và luật đó
khiến người dân khổ sở. Tất
nhiên luật đó trái với Ý
Chúa. Và người ta thường nói:
“Quan
nhất thời, dân vạn đại”.
Trong
cuộc sống đời thường, chúng
ta thấy luôn có những điều trái
ngược, như người ta thường nói
rằng chín người mà có tới
mười ý, và đôi khi có
những tình huống rất khó xử.
Không ai chịu nghe ai, nếu không có
nghiêm luật thì xã hội sẽ rối
loạn. Thánh Phaolô nói: “Người
Do Thái đòi hỏi những điềm
thiêng dấu lạ, còn người Hy Lạp
tìm kiếm lẽ khôn ngoan”
(1 Cr 1:22). Hai thái cực khác nhau. Còn
những người tin yêu Chúa, như
thánh Phaolô, thì “lại rao giảng
một Đấng Kitô bị đóng đinh,
điều mà người Do Thái coi là
ô nhục không thể chấp nhận, và
dân ngoại cho là điên rồ”
(1 Cr 1:23). Người ta chỉ theo những người
có uy tín – dù “uy tín”
đó chỉ là vàng bạc, chức
tước, địa vị, quyền hành,…
chứ ai lại ủng hộ người “nghèo
rớt mồng tơi”, không có cục
đất chọi chim? Thậm chí người
ta còn “chửi xéo” là kẻ
“thừa nói thiếu ăn”! Những
người “chịu” theo Chúa chắc
chắn cũng bị người ta cho là “tâm
thần”, là “ngu xuẩn”, là
“dại dột”, hoặc chí ít
cũng là “khờ khạo”. Tuy nhiên,
“đối với những ai được
Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do
Thái hay Hy Lạp, Đấng ấy chính
là Đức Kitô, sức mạnh và
sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1
Cr 1:24). Thật tuyệt vời!
Quả
thật, Chúa Giêsu là “dị nhân”
đúng nghĩa, bởi vì Ngài có
những động thái “ngược đời”,
hoàn toàn khác loài người.
Trong xã hội cũng vậy (cả đạo
lẫn đời), những người có tư
tưởng “mới lạ” là những
người “đi trước thời đại”,
có khả năng “nhìn xa, hiểu
rộng”, nhưng họ thường bị coi
là cấp tiến, bị xa lánh, bị cô
lập, bị ghét bỏ, thậm chí là
bị hại. Thật phũ phàng! Thực tế
cho thấy đã có những người
chỉ được chấp nhận là vĩ
nhân sau khi họ chết từ lâu rồi –
đơn vị thời gian có thể tính
bằng thế kỷ. Thật đáng buồn!
Những người có tư tưởng mới
mà “yếu bóng vía” sẽ ái
ngại, và rồi có thể “bỏ
của chạy lấy người”. Còn
những người “dị ứng” với
những tư tưởng mới thì chỉ
là những người không theo kịp
thời đại, thậm chí có thể
là “tiểu nhân”, không muốn
người khác hơn mình, hoặc cố
chấp, không muốn thay đổi nếp nghĩ
dù vẫn biết mình cổ hủ, lỗi
thời. Ngày nay người ta gọi loại
người đó là “đầu đất”
hoặc “đầu tôm”. Tồi tệ
thật!
Đối
với “nhà thông thái” Saolê,
sau lần ngã-ngựa-chí-tử, ngài
chợt nhận ra cái “ngược-đời-xem-chừng-nghịch-lý”
kia, và hóa thành Phaolô, và ông
đã can đảm xác nhận: “Cái
điên rồ của Thiên Chúa còn
hơn cái khôn ngoan của loài người,
và cái yếu đuối của Thiên
Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của
loài người”
(1 Cr 1:25). Thật vậy, có lần Thiên
Chúa đã xác định: “Tư
tưởng của Ta không phải là tư
tưởng của các ngươi, và
đường lối các ngươi không
phải là đường lối của Ta.
Trời cao hơn đất chừng nào thì
đường lối của Ta cũng cao hơn
đường lối các ngươi, và
tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư
tưởng các ngươi chừng ấy”
(Is 55:8-9). Khoảng cách biệt quá lớn,
và chẳng bao giờ phàm nhân có
thể hiểu hết Thánh Ý của Ngài.
Nhưng Ngài rất công minh chính trực,
công bằng tuyệt đối, chắc chắn
sẽ “bù lỗ” cho những người
chịu thua thiệt ở đời này.
HƯỞNG
LUẬT
Trình
thuật theo Thánh sử Gioan cho biết rằng…
Gần
dịp lễ Vượt Qua, Đức Giêsu
lên thành Giêrusalem, Ngài hết sức
ngạc nhiên khi thấy trong Đền Thờ
có những kẻ bán chiên, bò, bồ
câu, và những người đang ngồi
đổi tiền. Ngài liền lấy dây
làm roi mà xua đuổi tất cả bọn
họ cùng với chiên bò ra khỏi
Đền Thờ; còn tiền của những
người đổi bạc, Ngài đổ
tung ra, và lật nhào bàn ghế của
họ.
Bản
tính thẳng thắn và nghiêm túc,
Chúa Giêsu nói thẳng với những
kẻ buôn bán: “Đem
tất cả những thứ này ra khỏi
đây, đừng biến nhà Cha Tôi
thành nơi buôn bán”
(Ga 2:16). Lúc đó, các môn đệ
“giật mình” nhớ lại lời đã
chép trong Kinh Thánh: “Vì
nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà
tôi đây sẽ phải thiệt thân”
(Ga 2:17; Tv 69:10). Thấy Chúa Giêsu “nổi
nóng” và dám chê họ sai, người
Do Thái ấm ức nên chất vấn Ngài:
“Ông
lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho
chúng tôi thấy là ông có quyền
làm như thế?”
(Ga 2:18). Nhưng Ngài vẫn thản nhiên:
“Các
ông cứ phá huỷ Đền Thờ này
đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng
lại”
(Ga 2:19).
Ui
da! Ngôi Đền Thờ Giêrusalem phải
mất 46 năm mới xây xong, thế mà
Chúa Giêsu nói có thể xây lại
chỉ nội trong 3 ngày. Ai cũng lắc đầu
và nói: “Bó
tay luôn!”.
Bó toàn thân luôn chứ bó tay
là chuyện nhỏ. Đối với họ
thì đúng là Chúa Giêsu sinh
sống gần kho đạn, “nổ” hết
mức, hoặc là “tâm thần”
thật. Tuy nhiên, Ngài muốn nói về
chính thân thể Ngài mà họ
không thể nghĩ kịp tư tưởng
của Ngài. Ngay cả các môn đệ,
dù đã từng rong ruổi với Ngài
khắp nơi, cùng chia ngọt sẻ bùi
với Ngài, đúng ra là họ phải
hiểu Ngài, thế mà các ông cũng
đã “miệng chữ A, mắt chữ O”
khi nghe Sư phụ mình nói như vậy.
Và chúng ta cũng chẳng hơn gì!
Tất
cả còn trong “bức màn bí ẩn”.
Mãi đến khi Chúa Giêsu từ cõi
chết trỗi dậy, các môn đệ
mới “tá hỏa tam tinh” mà nhớ
lại điều Ngài đã nói thì
mới đủ tin vào Kinh Thánh và
lời Ngài nói. Trong lúc Ngài ở
Giêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua,
có nhiều người tin Ngài vì đã
chứng kiến các dấu lạ Ngài làm.
Thế nhưng chính Đức Giêsu chưa
đủ tin họ, vì Ngài biết rõ
có gì trong lòng con người.
Chắc
chắn chúng ta cũng chẳng hơn gì
người Do Thái. Thật vậy, thấy cái
gì lạ thì tin ngay, nhưng rồi “đâu
lại vào đấy”, xin và được
ơn thì tin lắm, xin không được
thì “nhăn mặt” và muốn
“đặt vấn đề” hoặc lung
lay niềm tin. Thậm chí, đôi khi chúng
ta cầu nguyện mà kỳ thực chúng
ta đang “ngã giá”, “hối
lộ” hoặc “mua chuộc” Chúa
và các vị thánh mà chúng ta
cho là “thiêng lắm”. Quả thật,
đó là điều chúng ta phải
suy tư nhiều, bởi vì ngày xưa
chính Thiên Chúa cũng đã từng
đặt vấn đề: “Cho
đến bao giờ nữa quý vị từ
chối, không tuân giữ các mệnh
lệnh và luật lệ của Tôi?”
(Xh 16:28). Coi bộ “căng” dữ nghen!
Lạy
Thiên Chúa duy nhất mà con tôn thờ,
con chẳng khác những kẻ bơ vơ, lạc
hướng trong thế giới ngày nay, vì
khó tìm được người thực
sự đáng tin cậy, trong khi xung quanh con có
nhiều loại thần ô uế, thần tài,
thần nhục dục, thần danh vọng, thần
địa vị, thần quyền lực,…
nhất là thần hóa “cái tôi”.
Đôi khi con còn mắc những chứng
bệnh trầm kha trong cách nhìn, trong nếp
nghĩ, và trong lối sống, thế nên
con vẫn làm ngơ những người sống
bên lề xã hội, mặc họ bị
bóc lột, bị áp bức, bị khinh
miệt, bị tước đoạt nhiều thứ…
Con chân thành xin lỗi Chúa, cầu xin
Ngài thương giúp con nhận diện
chính mình để có thể nhìn
rõ tha nhân mà chạnh lòng thương
xót họ bằng chính trái tim của
Đức Kitô, đồng thời cũng xin
giúp con can đảm chấp nhận mọi
thứ dù trong hoàn cảnh nào. Con cầu
xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô,
Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
TRẦM
THIÊN THU
(*)
Hội Thánh có năm điều răn:
– Thứ
nhất: Dự lễ và kiêng việc xác
ngày Chúa Nhật cùng các ngày
lễ buộc;
– Thứ
hai: Xưng tội trong một năm ít là
một lần;
– Thứ
ba: Rước Mình Thánh Chúa trong mùa
Phục Sinh;
– Thứ
bốn: Giữ chay và kiêng thịt những
ngày Hội Thánh buộc;
– Thứ
năm: Góp công góp của xây dựng
Hội Thánh, tùy theo khả năng của
mình.
|