VÔ
ĐIỀU KIỆN
(Chúa
Nhật II Mùa Chay, năm B)
Trong
đời sống hàng ngày, vâng lời
là điều không dễ thực hiện,
nói thẳng ra là rất khó. Tại
sao vậy? Bởi vì “cái tôi”
luôn to lớn khiến người ta tự ái,
cảm thấy vâng lời người khác
là yếu thế, bị lép vế.
Khó
vâng lời không có nghĩa là không
thể vâng lời, khó mà làm được
mới đáng khen, thế nên vâng lời
là một nhân đức quan trọng, nhất
là đối với các Kitô hữu.
Đức vâng lời liên quan đức
khiêm nhu. Chính Chúa Giêsu đã
nêu gương: “Lạy
Cha, nếu con cứ phải uống chén này
mà không sao tránh khỏi, thì xin
vâng ý Cha”
(Mt 26:42).
Dẹp
được “cái tôi” là
vượt qua chính mình để sẵn
sàng vâng lời – vô điều
kiện chứ không có điều kiện,
thì dễ nên thánh. Ngày xưa, ông
Samuel đã đặt vấn đề với
vua Sa-un: “Đức
Chúa có ưa thích các lễ toàn
thiêu và hy lễ như ưa thích người
ta vâng lời Đức Chúa không? Này,
vâng
phục thì tốt hơn là dâng hy lễ,
lắng nghe thì tốt hơn là dâng mỡ
cừu”
(1 Sm 15:22; x. Tv 50:8-9). Đức vâng lời rất
quan trọng! Thật vậy, vâng lời là
một trong ba (hoặc bốn, hoặc năm, tùy
dòng) lời khấn của các tu sĩ:
Vâng lời, khó nghèo, khiết tịnh
(thanh tuân, thanh bần, thanh tịnh). Trong đời
sống gia đình và xã hội, con
cái phải biết vâng lời cha mẹ,
người nhỏ phải biết vâng lời
người lớn, nhân viên phải biết
vâng lời giám đốc,… Nếu
không vâng lời thì mọi thứ mất
trật tự.
Tam
nhân đồng hành tất hữu ngã
sư yên – chỉ ba người thôi
cũng có người có thể làm
thầy, tức là người đó có
thể hướng dẫn người khác, và
chắc hẳn hai người kia phải nghe theo
lời hay lẽ phải của họ. Tất nhiên
vâng lời phải theo nghĩa tích cực,
không thể vâng lời khi người trên
dạy làm sai do độc đoán, áp
chế.
ĐỪNG
ĐẮN ĐO !
Đức
vâng lời của tổ phụ Ápraham thật
là tuyệt vời, không so đo, không
nghi ngờ, không thắc mắc. Trình thuật
St 22:1-2, 9-13, 15-18 cho biết về đức tin
tuyệt đối của ông.
Sau
một thời gian, hết chuyện nọ tới
chuyện kia, Thiên Chúa tiếp tục thử
lòng ông Ápraham. Nghe Đức Chúa
gọi đúng tên và ông liền
thưa: “Dạ,
con đây!”.
Ngài truyền lệnh: “Hãy
đem con của ngươi, đứa con một
yêu dấu của ngươi là Ixaác,
hãy đi đến xứ Môrigia mà
dâng nó làm lễ toàn thiêu ở
đấy, trên một ngọn núi Ta sẽ
chỉ cho”.
Ông
Ápraham chỉ có một đứa con cầu
con khẩn, một con trai rất yêu dấu, mà
theo tục lệ Do Thái, “anh Hai” rất
quan trọng vì là con thừa tự và
có quyền trưởng nam, thế mà
Thiên Chúa lại bảo dâng chính
đứa con đó làm lễ toàn
thiêu. Căng quá! Thế nhưng ông
Ápraham vẫn không hề đắn đo,
không hề thắc mắc, không hề nghi
ngờ, không hề tiếc nuối, mà ông
lại sẵn sàng tuân phục lệnh
truyền của Thiên Chúa một cách
mau mắn, dứt khoát, không chút ngần
ngại hoặc chần chừ.
Quyết
định và làm ngay. Ông chuẩn bị
mọi thứ và dẫn con trai theo. Khi tới
nơi Thiên Chúa đã chỉ, ông
Ápraham dựng bàn thờ tại đó,
xếp củi lên, trói Ixaác con ông
lại, và đặt lên đống củi
trên bàn thờ. Rồi ông Ápraham
lấy dao để sát tế con mình. Gay
cấn quá! Nhưng sứ thần của Đức
Chúa từ trời gọi đích danh ông,
và ông cũng lại liền thưa: “Dạ,
con đây!”.
Ông nghe tiếng Người nói: “Đừng
giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm
gì nó! Bây giờ Ta biết ngươi
là kẻ kính sợ Thiên Chúa: đối
với Ta, con của ngươi, con một của
ngươi, ngươi cũng chẳng tiếc!”.
Ôi, một niềm tin trong ngần như pha lê
và hoàn toàn tuyệt đối. Nhờ
niềm tin như vậy mà ông được
kể là người công chính.
Thật
là trên cả tuyệt vời! Ông
Ápraham ngước mắt lên nhìn, ông
thấy phía sau có con cừu đực bị
mắc sừng trong bụi cây. Ông Ápraham
liền đi bắt con cừu ấy mà dâng
làm lễ toàn thiêu thay cho con mình.
Sứ thần của Đức Chúa từ
trời gọi ông Ápraham một lần nữa
và nói: “Đây
là sấm ngôn của Đức Chúa,
Ta lấy chính danh Ta mà thề: Bởi vì
ngươi đã làm điều đó,
đã không tiếc con của ngươi,
con một của ngươi, nên Ta sẽ thi ân
giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho
dòng dõi ngươi nên đông, nên
nhiều như sao trên bầu trời, như
cát ngoài bãi biển. Mọi dân
tộc trên mặt đất sẽ cầu chúc
cho nhau được phúc như dòng dõi
ngươi, chính vì ngươi đã
vâng lời Ta”.
Thiên Chúa hứa bất cứ điều
gì thì đều ứng nghiệm và
nên trọn.
Cũng
dễ hiểu rằng người ta càng tin
tưởng thì càng dễ dàng dứt
khoát và mau mắn vâng lời. Thánh
vịnh gia đã bộc bạch: “Tôi
đã tin cả khi mình đã nói:
Ôi nhục nhã ê chề!”
(Tv 116:10). Bị nhục nhã ê chề mà
còn tin được sao? Thật khó quá!
Đúng vậy, thường thì chúng
ta chỉ tạ ơn Chúa khi mình được
ơn này, ơn nọ, vì thấy “hợp
ý mình”, còn nếu “trái
ý mình” thì chắc hẳn chúng
ta không muốn tạ ơn Chúa, cho vậy
là “phi lý”, thậm chí có
người còn có thể trách Chúa.
Tuy
nhiên, nếu suy cho thấu đáo, chúng
ta sẽ khả dĩ chân nhận tất cả
đều là Hồng ân Thiên Chúa,
bởi vì như Thánh Vịnh gia xác
định: “Thân
này là tôi tớ Ngài, con của nữ
tỳ Ngài, xiềng xích trói buộc
con, Ngài đã tháo cởi”
(Tv 116:16). Do đó, chúng ta càng phải
biết “dâng lễ tạ ơn, và kêu
cầu thánh danh Đức Chúa” (Tv
116:17). Vâng lời và tạ ơn Chúa
không chỉ là bổn phận mà còn
là niềm hãnh diện và hạnh phúc
của mỗi chúng ta – những “hạt
bụi” nhỏ bé nhưng vẫn đáng
giá vì được Thiên Chúa tạo
nên.
Quả
thật, hạt bụi phàm nhân trở nên
hạt ngọc của Thiên Chúa. Lạ lùng
lắm! Trong trình thuật Rm 8:31-34, Thánh
Phaolô đặt ra một loạt câu hỏi:
“Vậy
còn phải nói gì thêm nữa? Có
Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai
còn chống lại được chúng
ta? Đến như chính Con Một, Thiên
Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao
nộp vì hết thảy chúng ta. Một
khi đã ban Người Con đó, lẽ
nào Thiên Chúa lại chẳng rộng
ban tất cả cho chúng ta? Ai sẽ buộc
tội những người Thiên Chúa đã
chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng
làm cho nên công chính? Ai sẽ kết
án họ? Chẳng lẽ Đức Giêsu
Kitô, Đấng đã chết, hơn nữa,
đã sống lại, và đang ngự
bên hữu Thiên Chúa mà chuyển
cầu cho chúng ta?”.
Và
chính những câu hỏi đó cũng
chính là những câu trả lời rạch
ròi và chính xác về thân phận
của chúng ta. Đúng là không
phải nói gì thêm nữa! Vô tri
bất mộ – không biết chẳng yêu,
nhưng một khi biết rồi thì không
thể không yêu mến, không cậy tin,
và không ngần ngại xác định:
“Giờ
đây con biết đợi trông gì,
lạy Chúa, hy vọng của con đặt ở
nơi Ngài”
(Tv 39:8).
CON
CỦA CHÚA
Trình
thuật Mc 9:2-10 (tương đương Mt
17:1-8; Lc 9:28-36) kể lại cuộc biến hình
của Chúa Giêsu trên núi Tabor. Hôm
đó, Đức Giêsu đem các ông
Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo
tới một ngọn núi cao. Bỗng nhiên
Ngài biến đổi hình dạng trước
mắt các ông. Y phục Ngài mặc
trở nên rực rỡ, trắng tinh, không
có thợ nào ở trần gian giặt
trắng được như vậy. Các ông
còn thấy có ông Êlia và ông
Môsê hiện ra đàm đạo với
Đức Giêsu. Các ông được
thấy “hiện tượng lạ” không
chỉ là người “may mắn” mà
còn là người có trọng trách
nặng nề hơn, đó là sự công
bằng. Thật vậy, bất cứ tặng phẩm
nào cũng gắn liền với trách
nhiệm nào đó, như tục ngữ
Việt Nam nói: “Cây
càng cao, gió càng lay”.
Biết vậy để khiêm nhường chứ
không để ỷ lại mà kiêu sa.
Được
tận mắt chứng kiến sự lạ lùng
đó, ông Phêrô rất phấn
khởi, đến nỗi ông phải thưa
ngay với Sư Phụ Giêsu: “Thưa
Thầy, chúng con ở đây, thật là
hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một
cho Thầy, một cho ông Môsê, và
một cho ông Êlia”.
Chắc chắn không ai có thể trì
hoãn sự sung sướng, nhất lạ khi
hưng phấn cao độ. Vừa kinh hoàng
vừa hạnh phúc tột đỉnh bởi
vì được “nếm thử” vinh
quang Thiên Đàng, ông Phêrô không
còn nhớ đến hai anh bạn bên cạnh
và quên luôn cả chính mình,
chỉ muốn dựng lều cho Chúa Giêsu,
cho ông Môsê và ông Êlia mà
thôi.
Sự
lạ nối tiếp, sự ngạc nhiên cũng
nối tiếp. Bất chợt có đám
mây bao phủ các ông, và có
tiếng nói vọng ra: “Đây
là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời
Người”.
Chính Thiên Chúa truyền dạy chúng
ta phải vâng lời Đức Kitô –
Đấng vừa là “Con Cưng” của
Chúa Cha vừa là Ngôi Hai Thiên Chúa,
nhưng vẫn thực hiện đức vâng
lời tuyệt đối. Điều đó
chứng tỏ Thiên Chúa rất quý
trọng đức vâng lời, và chính
Ngài cũng “đã phải trải qua
nhiều đau khổ mới học được
thế nào là vâng phục” (Dt 5:8).
Không hề đơn giản, và cũng
không thể cứ tà tà hoặc cứ
khơi khơi mà “thuộc lòng”
bài học vâng phục để có
thể thành nhân!
Niềm
vui sướng trào dâng, niềm hạnh
phúc đang lâng lâng khó tả,
tuyệt vời biết bao! Nhưng bất chợt
các ông nhìn quanh thì không thấy
ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với
các ông mà thôi. Hẳn là các
ông còn dư âm niềm hạnh phúc
ấy và chắc là tiếc những giây
phút kia lắm. Ở trên núi xuống,
Đức Giêsu truyền cho các ông
không được kể lại cho ai nghe những
điều vừa thấy, trước khi Con Người
từ cõi chết sống lại. Các ông
tuân lệnh đó nên giữ bí
mật riêng, nhưng vẫn bàn hỏi nhau
xem câu “từ cõi chết sống lại”
nghĩa là gì. Con người thật yếu
đuối, vừa thấy nhãn tiền vinh
quang Nước Trời mà vẫn chưa đủ
lòng tin!
Hạnh
phúc không thể dừng lại ở đó
– trên đỉnh Tabor, mà hạnh phúc
còn phải trải qua nhiều đau khổ
cho tới đỉnh Can-vê – nơi tang
thương và chết chóc: chết cho
chính mình, chết cho tha nhân và
chết vì Chúa. Tình yêu nào
không tiết ra chất hy sinh thì không
là tình yêu đích thực, và
cũng không thể có hạnh phúc
thật. Chắc chắn như vậy!
Trình
thuật Lv 19:11-18 nói về luật luân lý,
cũng có thể coi như Luật Chay, bởi
vì giữ chay là sống đúng các
nguyên tắc về luân lý. Luật đó
được ấn định qua 13 mệnh lệnh
phủ định với chữ KHÔNG và 2
mệnh lệnh xác định với chữ
PHẢI. Kinh Thánh ghi rõ:
“Các
ngươi KHÔNG được trộm cắp,
không được nói dối, KHÔNG
được lừa gạt đồng bào
mình. Các ngươi KHÔNG được
lấy danh Ta mà thề gian: làm thế là
các ngươi xúc phạm đến danh
Thiên Chúa của các ngươi. Ta là
Đức Chúa. Ngươi KHÔNG được
bóc lột người đồng loại,
không được cướp của; tiền
công người làm thuê, ngươi
KHÔNG được giữ lại qua đêm
cho đến sáng. Ngươi KHÔNG được
rủa người điếc, đặt chướng
ngại cho người mù vấp chân, nhưng
phải kính sợ Thiên Chúa của
ngươi, Ta là Đức Chúa. Các
ngươi KHÔNG được làm điều
bất công khi xét xử: KHÔNG được
thiên vị người yếu thế, cũng
KHÔNG được nể mặt người
quyền quý, nhưng hãy xét xử
công minh cho người đồng bào.
Ngươi KHÔNG được vu khống những
người trong dòng họ, không được
ra toà đòi người đồng loại
phải chết. Ta là Đức Chúa. Ngươi
KHÔNG được để lòng ghét
người anh em, nhưng PHẢI mạnh dạn
quở trách người đồng bào,
như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội
vì nó. Ngươi KHÔNG được
trả thù, không được oán hận
những người thuộc về dân ngươi.
Ngươi PHẢI yêu đồng loại như
chính mình. Ta là Đức Chúa”.
Thực
thi Luật Chay nhưng phải đúng cách,
không thể theo kiểu đại khái hoặc
cho qua lần, chiếu lệ. Thiên Chúa cảnh
báo qua ngôn sứ Isaia: “Này,
ngày ăn chay, các ngươi vẫn lo
kiếm
lợi,
vẫn áp
bức
mọi kẻ làm công cho mình. Này,
các ngươi ăn chay để mà đôi
co cãi vã,
để nắm
tay đánh đấm
thật bạo tàn. Chính ngày các
ngươi muốn ăn chay để tiếng các
ngươi kêu thấu trời cao thẳm thì
các ngươi lại ăn
chay không đúng cách”
(Is 58:3b-4).
Thiên
Chúa yêu thương và tha thứ cho
chúng ta vô điều kiện: “Lạy
Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết
việc họ làm”
(Lc 23:34). Như vậy, chúng ta cũng PHẢI
ăn chay, đền tội, và tha thứ cho
tha nhân vô điều kiện: “Anh
em đã ĐƯỢC CHO KHÔNG thì
cũng PHẢI CHO KHÔNG như vậy”
(Mt 10:8). Đó là cách chứng tỏ
lòng yêu mến Thiên Chúa tuyệt
vời khiến Ngài vui lòng chúc lành
cho chúng ta – hôm nay và mãi mãi.
Lạy
Thiên Chúa, xin giúp con biết sống
khiêm nhường và vâng lời, đồng
thời xin ban cho con thêm đức Tin, đức
Cậy và đức Mến, để con có
thể làm đẹp lòng Ngài và
làm vui lòng tha nhân. Con cầu xin nhân
danh Đức Giêsu Kitô, Thánh Tử Yêu
Dấu của Cha, Đấng cứu độ nhân
loại. Amen.
TRẦM
THIÊN THU
|