Dã thú
Một ngày nọ, lạc đà
con nói chuyện với lạc đà mẹ như sau, “Mom!
Tại sao bàn chân của mẹ con mình lại có 3 ngón chân to
tổ chảng vậy?” Lạc đà mẹ trả
lời, “Để chúng mình băng qua sa mạc cát mềm
mà không bị lún chứ làm sao!” “Và tại sao
chúng mình có bộ lông mi dài lượt thượt và
nặng nề quá vậy?” “Để cát
khỏi rơi vào mắt trên những hành trình dài trong sa
mạc đó con!” “Và Mom, tại saochúng mình lại
phải mang những cái bướu quá bự trên lưng
vậy?” Bây giờ thì lạc đà mẹ không còn kiên
nhẫn nổi để trả lời những câu
hỏi vớ vẩn của thằng con nữa, nhưng
cũng cố trả lời, “Chúng nó giúp chúng mình dự
trữ những chất béo cho những cuộc du hành dài,
nhờ đó mà mẹ con mình không cần nước trong
một thời gian rất lâu ở sa mạc!” “Đúng vậy, con biết rồi!” lạc đà
con nói, “Chúng mình có ngón chân bự để không bị lún
dưới cát, lông mi dài để tránh cát bụi khỏi
rơi vào mắt, và những cái bướu trên lưng
để chứa nước. Vậy thì, Mom! Tại
sao chúng ta lại ở đây, trong cái sở thú của Toronto
này?
Đời
sống văn minh hiện đại làm cho chúng ta có
cảm giác giống như con lạc đà trong sở thú.
Chúa ban cho ta khối óc để suy nghĩ, nhưng bây
giờ đã có máy computer nghĩ hộ chúng ta rồi! Chúa
ban cho ta con tim để yêu thương
tha nhân, nhưng đã có những cơ quan từ thiện
làm việc bác ái rồi! Đôi khi chúng ta
cần đi vào trong “sa mạc” để khám phá lại
chúng ta thực sự là ai? Mùa chay mời
gọi chúng ta đi vào trong cái cảm nghiệm của
loại “sa mạc” này.
Sa mạc hay hoang địa là
nơi sinh trưởng của dân Thiên Chúa. Dân Do Thái, là
những bộ lạc tản mác tha phương đã
trốn thoát khỏi đất Ai cập trở về
miền Đất Hứa như một quốc gia
dưới quyền lực của Thiên Chúa. Chính ở trong
sa mạc mà họ đã trở thành dân
Thiên Chúa với lời giao ước. Trong dòng lịch
sử, khi nào tình yêu và lòng trung thành của họ
đối với Thiên Chúa trở nên lạnh nhạt, thì
các tiên tri đề nghị họ trở về sa mạc
để khám phá lại cái căn tính của mình là ai, giúp
họ ý thức về ơn gọi và sứ mệnh
của mình, làm thức tỉnh đức tin và củng
cố sự liên hệ đã giao ước giữa họ
với Thiên Chúa. Những đại tiên tri như Elijah và
Gioan Tẩy giả là những vị tiên tri của sa mạc: họ sống trong sa mạc,
ăn thức ăn sa mạc, và chấp nhận một
lối sống đơn sơ và khắc nghiệt trong sa
mạc. Sa mạc là trường
đại học nơi Thiên Chúa dạy dỗ dân Ngài.
Lời
Chúa hôm nay trích từ Phúc âm của thánh Máccô. Sau khi Chúa Giêsu chịu phép
rửa, “Thánh Thần thúc đẩy Ngài vào hoang địa,
và Ngài ở đó suốt 40 đêm ngày, chịu Satan cám
dỗ, sống chung với dã thú; và các thiên thần hầu
hạ Ngài”. Phúc âm của Matthêu và Luca diễn
tả quỷ dữ cám dỗ và thách thức Chúa Giêsu dùng
quyền lực phục vụ cho nhu cầu riêng tư
của Ngài. Nhưng Chúa Giêsu đã
khước từ và nói, “Ngươi phải bái lạy
Thiên Chúa là Chúa của ngươi, và phải thờ
phượng một mình Ngài mà thôi”. Còn Phúc âm của
Máccô, thay vì diễn tả những chi tiết của
sự cám dỗ, chỉ nói vắn tắt trong câu: “Sống
chung với dã thú”. Dã thú là những con thú nào?
Theo
các nhà tu đức thì những con dã thú đó không phải
là những con dã thú ở bên ngoài chúng ta, nhưng ở trong
lòng ta. Chúng là
những con dã thú của bẩy mối tội đầu
như kiêu ngạo, hà tiện, ghen tuông, giận dữ, dâm
ô, mê ăn uống, và lười
biếng hay nguội lạnh.
Những
quyền lực này đè nặng trên chúng ta khi chúng ta
quyết định làm bất cứ việc gì. Đời người giống
như cuộc sống giữa sa mạc
với đầy những “dã thú”. Chúng ta
bị vây hãm xung quanh bởi một bên là những hoàn
cảnh khó khăn, còn một bên là những cám dỗ
mời gọi. Chúng ta cần sức mạnh
để chống lại những thù nghịch, những
gì đang tạo ra cho chúng ta một cảm giác an bình giả tạo. Hôm nay chúng
ta thử đối diện với “những con dã thú” mà
chúng ta thường xuyên phải chiến đấu trong
đời sống tâm linh.
1. Sự ngã lòng.
Nếu ví
cuộc đời giống như sa
mạc, nơi hoang địa với nhiều dã thú, khó
khăn và chông gai, thì chúng ta cảm thấy phải
chiến đấu thường xuyên và liên tục. Cuộc đời chất đầy những
gánh nặng và đòi hỏi. Không bao
giờ giải quyết hết các chuyện rắc
rối. Lúc nào cũng có vấn
đề. Nhưng chúng ta phải lưu
ý rằng trong khi Chúa Giêsu sống với các dã thú thì Thánh
Kinh nói rằng “các thiên thần hầu hạ Ngài”. Nói
cách khác, Chúa Giêsu không cô đơn, một mình. Ngài đã chiến đấu với dã thú bằng
sự hiện diện và sức mạnh của Thiên Chúa.
Ngài có sức mạnh, tràn đầy sức
mạnh. Sức mạnh của Thiên Chúa hướng
dẫn: “Thánh Thần thúc đẩy Ngài vào hoang
địa”. Chính Chúa Thánh Thần và các lực lượng
thiên thần cũng sẽ hướng dẫn và gia tăng
sức mạnh cho chúng ta chiến đấu kiên trì với
những khó khăn và cám dỗ trong cuộc đời.
Selma Lagerloeff trong huyền thoại “The Flanme”, đã
kể câu chuyện về chàng hiệp sĩ, sau cuộc
chiến thành công vào Thánh Địa, anh đã làm một
lời thề hứa. Anh thắp lên một
cây nến lấy từ ngọn lửa thánh tại ngôi
mộ của Chúa Giêsu, và mang nó trở về quê quán của
anh ở tỉnh Florence, nước Ý Đại Lợi mà
vẫn còn cháy sáng. Quyết định này đã biến
đổi anh trở thành một con người mới. Nó
biến đổi anh từ một người lính
hiếu chiến thích đánh nhau trở thành một con
người yêu chuộng hòa bình.
Trên đường trở về
nhà chàng hiệp sĩ đã bị bọn cướp bóc
lột, anh đã không rút gươm ra chống cự. Anh đã hứa cho chúng bất cứ những gì
anh có miễn là chúng không dập tắt ngọn nến cháy
của anh. Bọn cướp đã tước
đoạt áo giáp, thanh gươm, con
ngựa yêu quý và tiền bạc của anh. Chúng chỉ
để lại cho anh một con ngựa già. Sau khi đã
trải qua tất cả các kinh nghiệm của sự nguy
khốn, anh đã cưỡi con ngựa già về
đến Florence.
Để bảo vệ ngọn lửa không bị tắt
bởi những cơn gió trong sa mạc,
anh đã phải ngồi quay lưng lại với con
ngựa, và dùng thân mình để che chở cho ngọn
lửa.
Khi những tên đểu cáng trong
thị xã trông thấy anh cưỡi ngựa ngược
như vậy, chúng nghĩ anh là một tên điên khùng, và ra
sức đùa nghịch để dập tắt ngọn
lửa. Nhưng anh đã làm tất
cả sức mình để có thể giữ ngọn
lửa cháy sáng. Và sau cùng, anh đã mang nó về đến
nhà thờ chính tòa, và dùng nó để thắp lên tất
cả những cây nến trên bàn thờ của nhà thờ chính
tòa Florence.
Khi người đốt đèn ở nhà thờ hỏi
anh đã phải làm gì để giữ ngọn lửa
khỏi tắt, anh trả lời, “Ngọn lửa nhỏ
bé này sẽ đòi hỏi tất cả sự chú tâm
của anh; nó sẽ không cho phép anh nghĩ về bất
cứ điều gì khác. Và anh sẽ không có thể cảm
thấy an toàn một giây phút nào cả. Anh phải luôn luôn chiến đấu.
Bất kể là ngọn lửa có thể đã bảo
vệ anh tránh khỏi biết bao nhiêu nguy hiểm, anh
phải luôn tỉnh thức để ngăn ngừa
ngọn lửa không bị đánh cắp mất khỏi
anh”.
2. Sợ hãi
Nỗi sợ
hãi lớn nhất cho người bộ hành trong sa mạc là mất phương hướng,
không biết đường đi. Cái nhìn
của họ trở nên mờ ảo. Họ
nhìn ánh nắng chói chan trước mắt như là
những ao hồ mông mênh ngập nước. Ao giác
làm cho con người trở nên nghi ngờ, mất niềm
tin, và sau cùng dẫn đến hoang mang sợ hãi. Chỉ có đức tin và lòng trông cậy phó thác
mới chiến thắng được sợ hãi. Tin
rằng Thiên Chúa luôn yêu thương ta và muốn
điều tốt đẹp nhất cho ta. Tin
vào một Thiên Chúa luôn ở bên ta, đi với ta cho dù gian
nguy. Tin rằng quỷ dữ không có quyền lực
gì trên ta, nó chỉ có quyền vì ta ban cho nó mà thôi. Nó không thể bắt chúng ta làm điều gì
được, ngoài sự cám dỗ cho chính chúng ta phạm
tội. Chúng ta có tự do để từ chối, có
sức mạnh để chống trả.
“Đừng
sợ!” là sứ điệp nhắc đến trên 300
lần trong Phúc âm.
Khi Chúa Giêsu bước đi trên mặt nước
đến với các môn đệ, các ông hoảng sợ,
Ngài nói: “Chính Thầy đây, đừng sợ!” Thiên
thần Gabriel đã nói với Đức Maria: “Hỡi
Maria, xin đừng sợ!” Thiên thần cũng đã nói
với Giuse: “Đừng sợ đón Maria vợ ông về”. Vào ngày
sống lại, Chúa Giêsu cũng đã hiện ra với các
tông đồ và nói: “Sao anh em lại hoảng sợ… Chính
Thầy đây mà!”
3. Sự tiêu cực
Đây chính là
thái độ khiến chúng ta không thể thành công khi làm
bất cứ việc gì, hay bất cứ việc gì chúng ta
đang làm cũng sẽ đi sai lệch. Gần đây tôi
lắng nghe một cuốn băng cát-sét do một nhà
giảng thuyết nổi tiếng tên là Zig Ziglar. Ziglar nói rằng điều ngăn ngừa chúng ta
khỏi niềm hy vọng và sự tích cực về
cuộc đời chính là thái độ của chúng ta.
Thái độ tiêu cực có tính cách truyền nhiễm
giống như cơn bệnh nhiễm trùng. Chúng
ta càng tiêu cực bao nhiêu thì tình huống càng trở nên
thống khổ và hỗn loạn bấy nhiêu. Thái độ tích cực lúc khởi sự của
một ngày, hay của bất cứ công việc gì sẽ
định hình cho tất cả phần còn lại của
trọn cả một ngày hay sự thành công của công
việc sẽ kéo dài về sau.
Frederick Ebright đã chia sẻ kinh
nghiệm đối với thái độ tâm lý của mình
như sau: “Khi tôi cảm thấy thật buồn, tôi
viết một lá thư cho người bạn nói với
người ấy tất cả những chuyện rắc
rối của tôi. Tôi không gửi lá thư
đó đi. Nhưng tôi bắt đầu viết lá thư thứ hai gửi cho cùng một
người, trong đó tôi cẩn thận bỏ đi
bất cứ điều nào đã đề cập
đến những điều không may, và thay vào mỗi
rủi ro đó một chút tin vui. Vào lúc lá thư
này được viết ra, một phép lạ đã
xảy ra: tôi thực sự cảm thấy tốt hơn.
Và vì một lá thư vui tươi luôn
luôn phát sinh ra một sự đáp trả phấn khởi,
tôi đã hoàn tất một mục đích lưỡng
tiện”.
Mùa chay là
thời gian để cảm nghiệm về sa mạc hay hoang địa. Chúng ta không
cần phải có lạc đà đi vào sa
mạc, nhưng chúng ta có thể tạo ra một khoảng
không gian hoang địa cho chúng ta ngay giữa những xô
bồ ồn ào của cuộc sống. Hằng
ngày chúng ta có thể tìm ra một chỗ, dành ra một chút
thời gian một mình với Thiên Chúa. Nơi yên
tĩnh chúng ta sẽ biết mình là ai, biết những
điểm mạnh và điểm yếu, biết “thiên
thần” xung quanh cùng “những con dã thú”, lắng nghe tiếng
Chúa gọi và lời cám dỗ của Satan, khám phá lại
chúng ta là ai trước mặt Thiên Chúa.
|