ĐÓN
XUÂN – ĂN TẾT – GIỮ CHAY
Đón
Xuân, ăn Tết, giữ Chay
Vui
cùng nhân thế, khóc loài phàm
nhân
Trăm
năm chồng chất lỗi lầm
Vui
Xuân mà vẫn khóc thầm ăn năn
Đối
với Việt Nam (nói riêng) và đối
với Á Đông (nói chung), Mùa
Chay khởi đầu thường cũng là
lúc Mùa Xuân khởi đầu. Một
sự ngẫu nhiên thú vị và đầy
ý nghĩa đối với người Công
giáo. Chúng ta gọi là “ngẫu
nhiên” nhưng chắc hẳn đó là
Ý Chúa muốn chúng ta “xé
lòng” để nhớ mình là bụi
tro ngay khi chúng ta vui tưng bừng đón
Xuân, ăn Tết.
Không
ai thấy Xuân sao lại đón? Chẳng
ai thấy Tết sao lại ăn? Phải chăng
Xuân ẩn hiện trong hoa Mai, hoa Đào,…
được người ta “rước”
vào nhà nên gọi là đón
Xuân về? Những người ở xa trông
mong ngày về quê đoàn tụ và
luôn được người thân chờ
đón về quây quần trong ngày Tết
nên người ta gọi là đón
Xuân. Có thể như vậy đúng
hơn chăng?
Có
phải Tết là bánh, mứt, kẹo, dưa
hấu,… nên người ta mới có
thể ăn Tết? Cũng có thể lắm!
Quả thật, khi Tết đến Xuân về,
ngày xưa người Việt thường có
truyền thống dùng câu đối:
Thịt
mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
Cây
nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh
Trong
6 món đó có 3 thứ ăn được:
Thịt mỡ, dưa hành, bánh chưng
xanh. Tết là thế nên người ta mới
có thể ăn được chứ! Có
3 thứ không ăn được: Câu đối
đỏ, cây nêu, tràng pháo. Ngày
nay, 3 thứ không ăn được đã
trở nên xa lạ, thậm chí giới trẻ
có thể không biết rõ thế nào
là câu đối đỏ, cây nêu,
và tràng pháo.
Có
nhiều thứ “sống” cùng ngày
Tết cổ truyền và luôn hiện hữu
trong những ngày tết, câu đối
(vừa nêu trên) là một nét văn
hóa khó phai mờ, vẫn có thể in
đậm dấu ấn trong tâm thức người
Việt, mặc dù có thể không hiểu
nhiều về câu đối, nhưng chắc
hẳn nhiều người còn thuộc lòng
và hứng thú khi cần dẫn chứng
câu đối đó.
Khó
có thể xác định câu đối
này ra đời từ khi nào, nhưng căn
cứ theo những khái niệm được
dùng chỉ vật trong đó thì có
thể xác định câu đối kia
phải bắt đầu từ lúc nước
Việt có chữ viết và chắc chắn
là chữ Hán, đặc biệt là
khi dân gian có thú chơi câu đối
Tết. Theo các văn bản tồn tại đều
thống nhất tên gọi sáu thứ là
danh từ, nhưng có một bản dùng
“tiếng pháo” và một bản
dùng “xác pháo” thay cho danh từ
“tràng pháo”. Tiếng pháo,
tràng pháo hoặc xác pháo thì
cũng là pháo – cuộn giấy đỏ
tròn và chắc, có thuốc nổ bên
trong, có ngòi nổ, khi ngòi nổ được
châm cháy thì sẽ nổ “banh xác
pháo”.
Xét
về ngữ âm, có sự “đối
nhau” gần chỉnh tuyệt đối: “Trắc
trắc, bằng bằng, bằng trắc trắc”
đối với “bằng bằng, bằng
trắc, trắc bằng bằng”.
Nếu vế hai dùng chữ “xác”
hoặc “tiếng” thay cho “tràng”
thì đối âm chỉnh tuyệt đối.
Tuy nhiên, cuộc đời chẳng có gì
hoàn chỉnh tuyệt đối. Tương
đối cũng là tốt lắm rồi!
Có
sáu yếu tố được lựa chọn
tiêu biểu cho hương vị Tết. Trong
đó có ba yếu tố vật chất
(thịt mỡ, dưa hành, bánh chưng
xanh) là những thứ ăn được.
Kèm theo ba yếu tố tinh thần (câu đối
đỏ, cây nêu, tràng pháo) là
những thứ không ăn được. Đó
là sự cân đối và hài hòa
tạo nên số sáu (lục), mà chữ
“lục” được phát âm
tương tự chữ “lộc”, tức
là Lộc Xuân được trời đất
trao tặng, nghĩa là âm dương hòa
hợp.
Hai
màu xanh và đỏ là những sắc
màu nổi bật và sinh động trong
mùa Xuân vui tươi, đồng thời
có cả tiếng pháo nổ, tạo âm
thanh giòn giã như tiếng reo vui giữa
đất trời bao la. Còn “câu đối
đỏ” chính là “góc trí
tuệ” và cần thiết cho tâm hồn.
Chỉ có vật chất mà không có
tâm hồn thì vô nghĩa. Đúng
như Khổng Tử nói: “Ưa làm
điều nhân mà không ham học thì
bị cái mối hại che lấp thành ra
ngu muội”. Vừa thực tế vừa thâm
thúy!
Yếu
tố tâm linh là “cây nêu”.
Ngày nay hầu như dân gian không còn
quan tâm. Cây nêu thường được
dựng vào ngày 23 tháng Chạp, ngày
Táo quân cưỡi Cá Chép về
trời. Cây nêu là một cây tre cao
khoảng 5-6m. Ở ngọn thường treo nhiều
thứ: Bùa trừ tà, vàng mã, bầu
rượu bện bằng rơm, cá chép
giấy (cho ông Táo bay lên trời), giải
cờ vải điều, những chiếc khánh
nhỏ bằng đất nung (gọi là chuông
gió),…
Buổi
tối, người ta treo một chiếc đèn
lồng ở cây nêu để tổ tiên
biết đường về nhà ăn Tết
với con cháu. Trịnh Hoài Đức ghi
trong sách Gia Định Thành Thông Chí
thế này:“Bữa trừ tịch (tức
ngày cuối năm), mọi nhà ở trước
cửa lớn đều dựng một cây
tre, trên buộc cái giỏ bằng tre, trong
giỏ đựng trầu, cau, vôi, ở bên
giỏ có treo giấy vàng bạc, gọi
là “lên nêu”… có ý
nghĩa là để làm tiêu biểu
cho năm mới mà tảo trừ những xấu
xa trong năm cũ”. Ngày 7 tháng Giêng,
người ta “hạ nêu” (triệt
hạ), người Việt kiêng đòi nợ
người khác để tạo mối quan
hệ tốt đẹp ấm cúng của cộng
đồng trong những ngày vui Xuân. Cây
nêu còn có nghĩa là “cột
mốc”, là ranh giới ma quỷ không
được xâm phạm theo giao kèo giữa
loài người với chúng.
Câu
đối mang đậm dấu ấn của cộng
đồng cư dân làm nghề lúa
nước theo âm lịch với văn hóa
ẩm thực là sản phẩm nuôi trồng
và thú chơi trí tuệ tao nhã
của một thời “mực Tàu giấy
đỏ”, cùng với tín ngưỡng
dân gian mang tính truyền thuyết.
Điều
đó chứng tỏ con người rất
tâm linh, ngay cả những người vô
tín ngưỡng hoặc không theo tôn
giáo nào cũng vẫn mang dấu ấn
tâm linh vậy. Nếu không tâm linh sao
lại cúng tổ tiên và rước
ông bà về cùng ăn tết?
Năm
mới khởi đầu, ai cũng muốn “đêm
ba mươi, co cẳng đạp thằng Bần
ra cửa”, và “sáng mồng một,
giơ tay bồng ông Phú vào nhà”.
Không chỉ vậy, cuộc đời còn
cần phải sống với những từ kép
bắt đầu bằng chữ T, biểu hiện
những đức tính: Tích cực, Tin
kính, Tha thứ, Thương yêu, Tiết
kiệm, Từ tốn, Tu thân, Tĩnh tâm,
Tu nghiệp, Trầm tĩnh, Thỏa hiệp, Thoải
mái, Thánh thiện, Tự trọng và
Tôn trọng người khác,...
Mùa
Xuân vừa về thì cũng là lúc
mùa Chay Thánh tiếp đến. Như vậy,
Giáo Hội Công giáo Việt Nam bước
vào Mùa Chay đúng vào dịp Tết
cổ truyền của dân tộc.
Với
người Á Đông, đó là
sự nối kết kỳ lạ. Mừng Xuân
và vui Tết, nhưng phải luôn ghi
nhớ “mình là bụi đất,
và sẽ trở về với bụi đất”
(St 3:19). Ăn chay cũng phải khéo léo,
nội tại quan trọng hơn ngoại tại: “Đừng
xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy
trở về cùng Đức Chúa là
Thiên Chúa của anh em, bởi vì Người
từ bi và nhân hậu, chậm giận và
giàu tình thương, Người hối
tiếc vì đã giáng hoạ”
(Ge 2:13).
Đặc
biệt là Chúa Giêsu đã căn
dặn kỹ lưỡng và rõ ràng: “Khi
ăn chay, anh em chớ làm bộ rầu rĩ
như bọn đạo đức giả: chúng
làm cho ra vẻ thiểu não, để
thiên hạ thấy là chúng ăn chay.
Thầy bảo thật anh em, chúng đã
được phần thưởng rồi. Còn
anh, khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch,
chải đầu cho thơm, để không ai
thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của
anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo.
Và Cha của anh, Đấng thấu suốt
những gì kín đáo, sẽ trả
lại cho anh”
(Mt 6:16-18).
Tro
tương đương với cát bụi,
thân xác con người được tạo
thành từ đất: “Thiên
Chúa lấy bụi từ đất nặn ra
con người, thổi sinh khí vào lỗ
mũi, và con người trở nên một
sinh vật”
(St 2:27). Khi thân xác hư nát, nó sẽ
trở về đất cát hoặc bụi
tro.
Tổ
phụ Áp-ra-ham đã thưa với
Chúa: “Con
chỉ là thân tro bụi”
(St 18:27). Đó là ám chỉ cái
chết của nhân loại. Còn ngôn sứ
Giê-rê-mi-a mô tả cái chết là
“thung lũng tử thi và tro thiêu xác”
(Gr 31:10).
Tro
là điềm gở. Chúng ta dùng tro
vào ngày Thứ Tư Lễ Tro để
nhắc nhớ về cái chết chắc
chắn sẽ đến với chúng ta. Cái
chết có thể đến sớm, cũng có
thể đến chậm, nhưng chắc chắn
nó sẽ đến. Nếu cái chết
đến, chúng ta cần chuẩn bị, và
thời gian chuẩn bị là ngay từ bây
giờ, còn cách chuẩn bị là sống
theo phương cách của Chúa.
Tro
là lời khẩn thiết cầu xin Chúa
ân ban lòng thương xót, lòng
trắc ẩn, và ơn tha thứ. Chúng ta
đều là những tội nhân. Chịu
tro trong ngày Thứ Tư Lễ Tro là chúng
ta xin lỗi Chúa về tội lỗi mình,
và chúng ta muốn dùng Mùa Chay để
sửa sai để thanh tẩy tâm hồn, để
kiểm soát ước muốn, và tiến
bộ trong sự thánh thiện, nhờ đó
chúng ta sẽ chuẩn bị mừng Đại
Lễ Phục Sinh.
Nào,
chúng ta cùng đón Xuân, cùng
ăn Tết, nhất là phải một lòng
tôn kính Thiên Chúa là Chúa
Tể Càn Khôn, là Chúa Xuân đích
thực, và yêu thương mọi người
trong tình huynh đệ liên đới!
Lạy
Thiên Chúa, xin giúp chúng con trong Mùa
Chay Thánh này biết nhận ra đâu
là cùng đích của đời mình
mà thành tâm ăn năn sám hối
và trở về với Ngài. Chúng con
cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng
cứu độ chúng con. Amen.
TRẦM
THIÊN THU
|