ĐÓN
XUÂN
Cuộc
đời có nhiều mơ ước để
chờ đợi. Tuy nhiên, có những thứ
chờ mà không thấy, có những
điều không đợi mà đến.
Một trong những thứ người ta luôn
mong đợi và luôn được tiếp
đón là Mùa Xuân. Với Mùa
Xuân, từ trẻ tới già, cả nam và
nữ, kẻ buồn hoặc người vui, ai
cũng chộn rộn và háo hức chờ
đón Xuân về.![](+%20%C4%90%C3%93N%20XU%C3%82N_html_m1339a094.jpg)
Mỗi
người mỗi kiểu, mỗi người mỗi
cảm giác riêng biệt. Với NS Phạm
Đình Chương (*), ông cũng có
cách “Đón Xuân” của riêng
ông.
Ca
khúc “Đón Xuân” được
viết ở âm thể Trưởng, nhịp
phách đơn giản nhưng vẫn khả
dĩ chuyển tải niềm vui rộn rã và
đầy màu sắc Mùa Xuân, ca từ
diễn tả sự tích cực của cuộc
sống.
Bằng
cảm nhận tinh tế của người mang
tâm hồn âm nhạc, ông thấy thế
này: “Xuân
đã đến rồi, gieo rắc ngàn
hồn hoa xuống đời”,
và ông thấy mọi thứ cũng tươi
vui khác thường: “Vui
trong bình minh, muôn loài chim hát
vang mọi nơi, đẹp trong tiếng cười, cho
kiếp người tình thương đắm
đuối, ánh Xuân đem vui với đời”.
Mùa
Xuân là mùa yêu thương, mùa
vui mừng, mùa thảnh thơi, mùa hạnh
phúc. Khi Tết đến, Xuân về, người
ta cố gắng loại bỏ những điều
phiền não để mong được vui
trọn vẹn.
Tầm
nhìn của ông khác người lắm,
ông thấy mọi vật cũng đầy cảm
xúc như con người vậy: “Kìa
trong vạt nắng, mạch Xuân tràn dâng;,
khóm hoa nhẹ rung, môi cười thẹn
thùng cùng bao nguồn sống; bướm
say duyên lành, thắm tô trời Xuân;
bầy chim tung cánh, hót vui đón mừng
mùa nắng tươi lan”.
Thực
vật và động vật còn vui như
vậy thì con người sao lại không
vui cho được? Mọi vật biết vui hay
do con người tưởng tượng và
nhân cách hóa chúng? Có thể
chúng cũng biết vui, và cũng có
thể do con người nhân cách hóa
chúng. Sao cũng được, không thành
vấn đề, chỉ cần biết cả vật
và người đều tưng bừng khi
Xuân về. Thế thôi!
Chưa
hết. Ông còn có thính giác
cũng đặc biệt: “Ta
nghe gió về, lòng thiết tha như
muôn tiếng đàn”.
Lạ thật! Tiếng gió mà như tiếng
đàn. Tại sao? Vì “lỗ tai âm
nhạc” vậy đó, và vì “Xuân
dâng niềm vui, cho ngày xanh không hoen
lời than”,
vì Xuân đến để cho
“sầu thương xóa mờ”,
đồng thời để cho “tình
yêu đời càng thêm chan chứa”,
và ai cũng luôn “khát
khao Xuân tươi thái hòa”.
Thái
hòa là thái bình, là hòa
bình. Không ai lại không khao khát
nền hòa bình đích thực, đó
là hòa bình từ trong tâm hồn,
hòa bình trong xã hội, hòa bình
khắp đất nước, hòa bình
toàn thế giới.
Không
dễ để có một thế giới đại
đồng, nhưng ít ra cũng có những
ngày Tết là những ngày hòa
bình, ai cũng chung nhịp Xuân kỳ diệu:
“Cùng
đón chúa Xuân đang giáng
xuống trần, thế gian lắng nghe tình
Xuân nồng, kiếp hoa hết phai đời
hương phấn”.
NS Phạm Đình Chương kêu gọi
mọi người: “Nào
ai hững hờ, Xuân vẫn ngóng chờ,
tới đây nắm tay cùng ca múa, hát
lên đón Xuân của tuổi thơ”.
Vui như Tết, mừng như Xuân, mọi
người bỗng như hóa trẻ thơ
hết: Cười xả láng.
Xuân
tuyệt vời biết bao! Hãy cứ vui cho
trọn Mùa Xuân, chuyện gì đến
sẽ đến. Đừng lãng phí Mùa
Xuân, đừng bỏ phí Tình Xuân,
đừng đóng cửa lòng khi Tết
đến, bạn nhé!
Mùa
Xuân trần gian mà còn háo hức
và hân hoan chào đón như vậy,
huống chi là Mùa Xuân Vĩnh Hằng,
đó là Xuân Thiên Quốc, là
Tết Nước Trời.
Nhưng
cách chào đón có khác nhau.
Khi chờ đón Mùa Xuân trần gian,
người ta lo sắm sửa và đổi
mới đủ thứ; còn khi chờ đón
Mùa Xuân Vĩnh Hằng, người ta phải
từ bỏ nhiều thứ. Nhưng trước
tiên phải là sám hối, vì Đức
Kitô đã khuyến cáo: “Anh
em hãy sám hối, vì Nước Trời
đã đến gần” (Mt
3:2; 4:17).
Tiếp
theo là bỏ nhiều thứ, kể cả
những thứ thân thiết nhất, thậm
chí là chính mình: “Ai
yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì
không xứng với Thầy. Ai yêu con trai
con gái hơn Thầy thì không xứng
với Thầy. Ai không vác thập giá
mình mà theo Thầy thì không xứng
với Thầy. Ai giữ lấy mạng sống
mình thì sẽ mất; còn ai liều
mất mạng sống mình vì Thầy thì
sẽ tìm thấy được” (Mt
10:38-39). Căng thật! Nhưng không thế
không được.
Bỏ
mọi sự rồi cũng chưa xong, còn
phải tích cực làm điều tốt:
“Ai
cho một trong những kẻ bé nhỏ uống,
dù chỉ một chén nước lã
thôi, vì kẻ ấy là môn đệ
của Thầy, thì Thầy bảo thật anh
em, người đó sẽ không mất
phần thưởng đâu” (Mt
10:42). Khó lắm đấy, nhưng Chúa
hứa “chắc cú” là sẽ được
tưởng thưởng xứng đáng.
Chắc
chắn như vậy. Thế thì sướng
rơn, nếu thực hành theo đúng Ý
Chúa! Ngài vậy đó, nói thật
và làm thật, chứ không đùa
đâu!
Cung
Chúc Tân Xuân, Happy New Year (Anh), Heureuse
Nouvelle Année (Pháp), Felix Novus Annus (Latin), Feliz
Año Nuevo (Tây Ban Nha), Feliz Ano Novo (Bồ Đào
Nha), Bonan Novjaron (Esperanto).
TRẦM
THIÊN THU
(*)
NS Phạm
Đình Chương sinh
ngày 14-11-1929 tại Bạch Mai (Hà Nội).
Quê nội ở Hà Nội và quê
ngoại ở Sơn Tây. Ông xuất thân
trong một gia đình truyền thống âm
nhạc, thân phụ là ông Phạm Đình
Phụng. Người vợ đầu của ông
Phụng sinh được 2 người con trai:
Phạm Đình Sỹ và Phạm Đình
Viêm. Phạm Đình Sỹ kết hôn
với nữ kịch sĩ Kiều Hạnh, và
có con gái là ca sĩ Mai Hương.
Còn Phạm Đình Viêm là ca
sĩ Hoài Trung của ban hợp ca Thăng
Long.![](+%20%C4%90%C3%93N%20XU%C3%82N_html_4c391025.jpg)
Người
vợ sau của ông Phạm Đình Phụng
có 3 người con: Trưởng nữ là
Phạm Thị Quang Thái (ca sĩ Thái
Hằng, vợ NS Phạm Duy), con trai thứ là
NS Phạm Đình Chương, và cô
con gái út là Phạm Thị Băng
Thanh (ca sĩ Thái Thanh).
Ông
được nhiều người chỉ dẫn
nhạc lý, nhưng phần lớn vẫn là
tự học. Trong những năm đầu kháng
chiến, Phạm Đình Chương cùng
các anh em Phạm Đình Viêm, Phạm
Thị Quang Thái và Phạm Thị Băng
Thanh gia nhập Ban Văn nghệ Quân đội
ở Liên khu IV.
Phạm
Đình Chương bắt đầu sáng
tác lúc 18 tuổi (1947), nhưng phần
nhiều những nhạc phẩm của ông
thường được xếp vào dòng tiền
chiến bởi mang phong cách trữ tình
lãng mạn. Các nhạc phẩm đầu
tiên như Ra Đi Khi Trời Vừa Sáng
(viết chung với Phạm Duy), Hò Leo
Núi,... đều có nét hùng kháng,
tươi trẻ.
Năm
1951, ông và gia đình chuyển vào
miền Nam. Với nghệ danh ca sĩ Hoài
Bắc, ông cùng các anh em Hoài Trung,
Thái Thanh, Thái Hằng lập ban hợp ca
Thăng Long danh tiếng. Thời kỳ này
các sáng tác của ông thường
mang âm hưởng của miền Bắc như
nói lên tâm trạng hoài hương
của mình: Khúc Giao Duyên, Kiếp
Cuội Già, Được Mùa, Tiếng
Dân Chài,... Thời gian sau đó, ông
viết nhiều bản nhạc nổi tiếng và
vui tươi hơn: Xóm Đêm, Đợi
Chờ, Ly Rượu Mừng, Đón
Xuân, Xuân Tha Hương,...
Sau
khi cuộc hôn nhân với ca sĩ Khánh
Ngọc tan vỡ, ông bắt đầu sáng
tác tình ca. Ông đem tâm trạng
đau thương vào những bài nhạc
tình da diết, đau nhức, buốt giá
tâm can: Đêm Cuối Cùng, Thuở
Ban Đầu, Người Đi Qua Đời
Tôi, Nửa Hồn Thương Đau, Khi
Cuộc Tình Đã Chết,...
Ông
được coi là nhạc sĩ tiêu biểu
của dòng nhạc
tiền chiến và
là một tên tuổi lớn của nền
tân nhạc Việt Nam. Có thể nói
rằng Phạm Đình Chương là một
trong những nhạc sĩ phổ thơ hay nhất.
Nhiều bản nhạc phổ thơ của ông
đã trở thành những bài hát
bất hủ, có một sức sống riêng
như: Đôi Mắt Người Sơn Tây
(thơ Quang Dũng), Mộng dưới hoa (thơ
Đinh Hùng), Nửa Hồn Thương
Đau (thơ Thanh Tâm Tuyền), Đêm
Nhớ Trăng Saigon (thơ Du Tử Lê),
Người Đi Qua Đời Tôi (thơ Trần
Dạ Từ), Màu Kỷ Niệm (thơ Nguyên
Sa), Buồn Đêm Mưa (thơ Huy Cận),...
Ông cũng đóng góp cho tân nhạc
một bản trường ca bất hủ “Hội
Trùng Dương”, viết về ba con
sông Việt Nam: Sông Hồng, sông Hương
và sông Cửu Long.
Sau
1975, ông định cư tại California
(Hoa Kỳ), và qua đời ngày 22-8-1991.
+
Thưởng thức ĐÓN XUÂN:
https://www.youtube.com/watch?v=lGKMEw2sil4
|