NĂM
TUẤT – TẢN MẠN VỀ CON CHÓ
GÀ
KÊU QUÁC QUÁC KHI GIÃ BIỆT![](%5BTet%5D%20N%C4%82M%20TU%E1%BA%A4T%20%E2%80%93%20T%E1%BA%A2N%20M%E1%BA%A0N%20V%E1%BB%80%20CON%20CH%C3%93_html_7ae19353.jpg)
CHÓ
SỦA GÂU GÂU LÚC LÊN NGÔI
Con
Gà giã từ để nhường ngôi
cho con Chó. Năm 2018 mệnh danh là năm
Mậu Tuất (Hán tự: 戊戌),
cầm tinh con Chó, người ta gọi là
“Tiến Sơn Chi Cẩu” – nghĩa là
“Chó vào Núi”. Theo văn hóa
Á Đông, Chó được xếp
vào 12 con giáp, ở vị trí thứ
11 với chi Tuất, và là một trong
những con vật thuộc lục súc: Mã
(ngựa), Ngưu (trâu/bò), Dương
(cừu/dê), Cẩu (chó), Trư (lợn) và
Kê (gà).
Mậu là
một trong số 10 can của Thiên Can, thông
thường được coi là Thiên Can
thứ năm – trước có Đinh, sau
có Kỷ. Về phương hướng, Mậu
chỉ trung tâm; theo ngũ hành, Mậu tương
ứng với Thổ; theo thuyết Âm-Dương,
Mậu là Dương. Thiên Can gắn liền
với chu kỳ sinh trưởng của thực
vật. Mậu chỉ cây cỏ phát triển
tốt tươi.
Mậu
Tuất là kết hợp thứ 35 trong hệ
thống đánh số Can Chi của người
Á Đông. Nó được kết
hợp từ thiên can Mậu (Thổ
dương) và địa chi Tuất (chó).
Đối với Mậu Tuất, trước có
Đinh Dậu và sau có Kỷ Hợi. Nếu
tính từ năm 1958, năm 2018 là trọn
một “lục thập hoa giáp”. Như
vậy, cứ mỗi 60 năm là một vòng
“lục thập hoa giáp”, nếu đủ
vòng này mà chết thì người
ta được gọi “hưởng thọ”.
Thiết
tưởng cũng nên nhắc lại rằng
công lịch (như chúng ta sử dụng
ngày nay, lịch Gregorius – Grêgôriô)
do ĐGH Grêgôriô XIII áp dụng từ
năm 1582, chia một năm thành 12 tháng
với 365 ngày. Có điều ngạc nhiên
là cái gì hay và được
người ta công nhận thì đều
liên quan Kitô giáo. Thật kỳ lạ!
Theo
sử liệu, chó là loài động
vật nuôi đầu tiên được
con người thuần hóa cách đây
15.000 năm vào cuối Kỷ Băng Hà.
Tổ tiên của loài chó là Chó
Sói. Chó con được gọi là
“cún”, đặc biệt khi chó
còn nhỏ. Loài chó được sử
dụng để giữ nhà hoặc làm
vật cưng, thú tiêu khiển. Trong các
từ ghép Hán Việt, chó được
gọi là “cẩu” (狗)
hoặc “khuyển” (犬),
nên người ta nói “cẩu xực”
và “quân khuyển”. Bởi vì
chó nhìn tương tự “con cầy”
nên chó còn được gọi là
“cầy”, dân nhậu cũng “chơi
chữ” nên họ gọi là “cầy
tơ”, và đảo tự thành “cờ
tây”. Rượu vào lời ra có
khác!
Họ
nhà chó có tên khoa học là Canidae
(theo La ngữ, canis nghĩa là chó), có
khoảng 37 loài, bao gồm chó sói, chó
sacan, cáo, chó rừng và các giống
chó nhà. Tất cả các thành
viên trong họ chó đều là loài
ăn thịt và thích nghi đặc biệt
để săn mồi. Răng của chúng
dùng để cắn xé, nhai và gặm
thịt, tất nhiên thi thoảng chúng cũng
dùng răng để… cắn nhau.
Ở
loài chó, các giác quan phát triển
mạnh là thị giác, thính giác
và khứu giác: Chó có mắt to,
tai dựng và mũi nhạy. Nhờ đó,
chúng có thể theo dấu con mồi thành
công, dù là săn đơn độc
hay săn theo bầy. Tất cả các loài
chó – trừ chó bụi rậm Nam Mỹ
– đều có chân dài thích
nghi với việc chạy nhanh khi săn đuổi
mồi. Chó là loài “đi bằng
đầu ngón chân” và có các
bàn chân đặc trưng, năm ngón
ở chân trước và bốn ngón ở
chân sau. Đôi khi chó nhà có
năm ngón ở chân sau (móng thứ
năm gọi là móng huyền – huyền
đề). Chó rừng có đuôi dài,
lông dày, thường đồng màu
và không có đốm hoặc sọc.
ĐẶC
TÍNH CỦA LOÀI CHÓ
Thời
gian mang thai trung bình của chó kéo dài
khoảng 60 đến 62 ngày, có thể
sớm hơn hoặc kéo dài 65 ngày.
Lúc mới ra đời, chó con không có
răng, nhưng chỉ sau 4 tuần tuổi chúng
có thể có tới 28 cái răng. Bộ
hàm đầy đủ của chó gồm
42 cái răng. Cũng giống như các
động vật có vú, sau khi đẻ
con, chó mẹ cho con bú và chăm sóc
chúng vài tháng, lúc này chó
mẹ trở nên hung dữ.
Mắt
chó có đến 3 mí: một mí
trên, một mí dưới và mí
thứ ba ở giữa, hơi sâu vào phía
trong, giúp bảo vệ mắt khỏi bụi
bẩn. Tai chó rất thính, chúng có
thể nhận biết được 35.000 âm
rung chỉ trong một giây. Khứu giác chó
cũng thính như tai. Người ta có
thể ngửi thấy mùi thức ăn ở
đâu đó trong nhà bếp nhưng
chó thì có thể phân biệt từng
gia vị trong nồi, thậm chí những chú
chó săn còn tìm ra những cây
nấm con nằm sâu trong rừng, vì chúng
có thể phân biệt gần 220 triệu
mùi khác nhau. Não chó phát triển
tốt. Trước tiên chó phân biệt
vật thể dựa vào chuyển động,
sau đó là ánh sáng và cuối
cùng là hình dạng. Tuy nhiên, thị
giác của chó lại rất kém, chỉ
nhìn thấy 3 màu (xanh lục, xanh dương
và vàng). Vào mùa đông, chúng
ta thấy thỉnh thoảng chó hay lấy đuôi
che cái mũi ướt, đó là cách
chúng giữ ấm cho cơ thể.
Chó
có 2 lớp lông: lớp bên ngoài
như chúng ta thấy, còn lớp lót
bên trong giúp chúng giữ ấm, khô
ráo trong những ngày mưa rét, thậm
chí còn có thể giúp “hạ
nhiệt” trong những ngày oi bức.
Người
ta tính toán rằng chó 1 năm tuổi
tương ứng với người 16 tuổi,
chó 2 tuổi tương ứng với người
24 tuổi, chó 3 năm tuổi tương ứng
với người 30 tuổi, và sau đó
cứ thêm một năm tuổi chó thì
bằng 4 năm tuổi người. Ngày nay,
nhu cầu nuôi chó cảnh đang được
phát triển nên những giống chó
nhỏ như Chihuahua Fox, hoặc chó thông
minh như Collie được nhiều người
chơi quan tâm đến. Điều này
cũng không có gì khó hiểu bởi
chó là con vật thủy chung, gần gũi
với con người. Chó giúp con người
rất nhiều việc như trông nhà cửa,
săn bắt, và được xem như là
loài vật trung thành, tình nghĩa nhất
với con người.
Chó
là loài động vật được
nuôi nhiều trên thế giới, chúng
có thể giữ nhà, chăn cừu, dẫn
đường, kéo xe,... và tất nhiên
cũng là món vừa khoái khẩu vừa
giàu chất đạm, đặc biệt là
dân nhậu: Nó đây rồi!
HÌNH
ẢNH CON CHÓ TRONG VĂN HÓA
Trong
văn hóa và tâm linh của một số
dân tộc, chó là con vật thân
thiết gắn bó lâu đời với
người chủ – nói riêng, và
với con người – nói chung, các
đức tính của chó được
quý nhờ tính trung thành, thông
minh, quan tâm chủ nhân,... Chó là
bạn gần gũi với con người vì
nó bảo vệ nhà cửa cho con người,
thậm chí có nơi chó còn được
coi như thần linh nên được thờ
cúng tại các đền, miếu. Theo
quan niệm của người Việt, chó là
con vật có thể đem đến điều
may mắn, điều thuận lợi và niềm
vui: “Mèo
đến nhà thì khó, Chó đến
nhà thì sang”.
Nói theo tính khôi hài, chó kêu
“gâu gâu” tương tự tiếng
“giàu giàu” nên được
coi là tốt, còn mèo kêu “meo
meo” tương tự tiếng “nghèo
nghèo” nên bị coi là xấu. Chẳng
qua là do suy nghĩ của con người, quy
kết điều này hoặc điều nọ
theo định kiến của mình mà thôi,
chứ con vật nào lại không có
cái xấu và cái tốt – kể
cả con người?
Tại
nhiều nơi trên thế giới, chó được
yêu quý và nâng niu, người ta
cũng đặt các chòm sao theo loài
chó: Tiểu Khuyển, Đại Khuyển, Lạp
Khuyển. Ngoài ra, chó cũng là loài
bị khinh rẻ, coi thường, bị coi như
một con vật bẩn thỉu, ngu dốt và
đáng khinh. Người ta hay thóa mạ
nhau bằng những câu chửi, tiếng lóng
hoặc thuật ngữ liên quan loài chó
như: đồ chó má, đồ
chó đẻ, đồ chó săn, đồ chó
chết, đồ chó cái (ám
chỉ gái lăng loàn, mại dâm), đồ
chó ghẻ, ngu như chó, cẩu nô
tài (ám chỉ những kẻ tay
sai), tuồng chó lợn, đồ chó
vô chủ, đám chó hoang, chó
chui gầm chạn,...
Trong
giai thoại về Xiển Bột có câu
chuyện về chó, trong đó ngụ ý
quan như con chó và hội đồng làng
thì “lau chau như chó đau tranh cứt
sốt”. Trong tiểu thuyết “Giết Con
Chim Nhại”, và điển hình như
cảnh Atticus phải giết chết con chó
dại. Con chó đại diện cho thành
kiến còn tồn tại ở Maycomb, và
Atticus, người đã đợi trên
một con đường vắng để bắn
con chó, phải đấu tranh chống lại
nạn phân biệt chủng tộc ở nơi
đó mà không có giúp đỡ
nào từ những cư dân da trắng.
Thậm chí tác giả đã sử
dụng hình ảnh ẩn dụ từ sự
cố con chó dại để miêu tả
một vài cảnh trong căn phòng xử
án, con chó dại ở Maycomb chính
là nạn phân biệt chủng tộc đã
phủ nhận quyền con người của Tom
Robinson.
Trong
tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung có
chiêu võ công liên quan loài chó
là “đả cẩu bổng pháp”
– tức là những chiêu côn pháp
dùng để đánh chó. Đây
là một trong những tuyệt chiêu trấn
phái của Cái Bang (dùng côn). Đả
cẩu bổng pháp là bộ bổng pháp
(côn, gậy) chỉ có bang chủ đời
trước đích thân truyền thụ
cho bang chủ đời sau. Bộ bổng pháp
này áp dụng phương pháp “lấy
nhu thắng cương”.
Trong
điện ảnh, chó cũng có những
vai diễn trong các phim của Hollywood hoặc
Walt Disney sản xuất như: Trở Về
Nước, Chuyến Du Lịch Kỳ Lạ,
Chó Benji, Chú Chó Săn, Cáo và
Chó Săn (chuyện về con cáo Tod và
chó săn Copper) của Walt Disney, Chó Cleo
trong phim Sự Lựa Chọn Của Con Người,
Chó Asta trong phim Người Đàn Ông
Mảnh Khảnh, và bầy chó trong
phim hoạt hình “101 Con Chó Đốm”
của Walt Disney đã để lại ấn
tượng về những cá tính của
các diễn viên do sự sáng tạo
tinh tế của các họa sĩ.
Về
ẩm thực, chó được chế biến
thành nhiều món: luộc, lẩu, nướng,
xáo, áp chảo, nhựa mận, tiết
canh,… Người ta khoái món dồi
chó, thế nên ví von: “Sống
trên đời ăn miếng dồi chó,
Chết xuống âm phủ biết có hay
không”.
Người
ta thấy có 11 nơi trên thế giới
có thói quen ăn thịt chó. Trước
tiên phải nói ngay là tại Việt
Nam của chúng ta, có 10 nơi khác là
Trung Hoa, Đài Loan, Indonesia, Hàn quốc,
Thụy Sĩ, Bắc Cực, Nam Cực, México,
Philippines và Polynesia.
HÌNH
ẢNH CON CHÓ TRONG TÍN NGƯỠNG
Con
người vốn duy tâm nên có nhiều
phong tục thờ cúng, nhưng cách thờ
cúng các thụ tạo là quá ấu
trĩ, nói thẳng ra là ngu xuẩn, bởi
vì tại sao không thờ thứ gì
“cao cấp” mà lại thờ loại
“hạ cấp”, thậm chí còn
thấp kém hơn cả chính mình? Một
trong các tục lệ thờ cúng đó
là thờ chó. Tục lệ thờ chó
khá phổ biến ở nhiều dân tộc
trên thế giới, và có ở hầu
khắp thần thoại các dân tộc ở
Đông Nam Á. Ban đầu tục lệ
này xuất phát từ các dân tộc
chăn nuôi gia súc ở khu vực Tây
Nam Á, với vai trò canh giữ đàn
gia súc. Sau đó có thể người
Ấn–Âu từ thời đồng thau đã
mang vào Á Đông truyền thống
chăn nuôi cùng với tín ngưỡng
thờ chó. Trong thần thoại vùng Địa
Trung Hải và Cận Đông, chó được
coi là kẻ canh giữ gia súc, nhưng rồi
được chuyển thành kẻ canh giữ
thế giới âm phủ.
Tại
nhiều nước trên thế giới, huyền
thoại có liên quan loài chó như
Thiên khuyển, Cerbère (Chó Ngao Xéc-be)
và gắn liền với Tử Thần, âm
phủ, hạ giới. Theo đó, chó có
nhiệm vụ dẫn hồn của con người
trong bóng đêm của cõi chết.
Người Mexico cổ nuôi những con chó
chuyên để làm bạn đồng hành
và dẫn đường cho những người
chết sang thế giới bên kia. Tại
Nouvelle – Guinée, nhiều bộ tộc cho
rằng con chó đã đánh cắp
lửa của chủ nhân đầu tiên là
con chuột. Theo quan niệm của người
Mường, gà và chó giữ vai trò
làm biểu tượng của sự sống
(ánh sáng) và sự chết (bóng
tối) ở hai thế giới đối nghịch
nhau trong không gian, đại diện cho các
loài sống dưới thấp, trên mặt
đất. Tại Nhật Bản, chó là
bạn trung thành của con người. Theo Hồi
giáo, chó trở thành hình ảnh
của tất cả những gì xấu xa đê
tiện nhất trên thế gian, tự đồng
hoá mình với con chó ăn xác
chết, và chó là biểu tượng
của sự tham lam, phàm ăn, tục uống.
Tại
Trung Hoa, chó Bắc Kinh được coi là
những con chó thiêng liêng, thần thánh
mà được kính trọng như theo
một truyền thuyết về Thạch Sư với
khả năng xua đuổi tà ma cho gia chủ.
Chúng có thể chỉ được nuôi
bởi hoàng gia Trung Hoa và được
tôn trọng như thần thánh. Kẻ nào
ăn trộm một trong số chó này thì
sẽ bị hành hình. Những người
không thuộc quý tộc đều phải
cúi chào chúng. Khi hoàng đế
băng hà, chó Bắc Kinh của có
thể theo để bảo vệ ở thế
giới bên kia. Năm 1860, người Anh xâm
chiếm Cung điện Hoàng gia Trung Hoa, những
người lính bảo vệ hoàng gia
Trung Hoa được yêu cầu thủ tiêu
những con chó đó để bảo vệ
chúng khỏi rơi vào bàn tay của
kẻ thù, những người bị coi là
“những con quỷ ngoại xâm”.
Tại
Việt Nam – nhất là ở miền Bắc,
thịt chó được một số dân
rất ưa chuộng, họ có cả một
“phố thị chó” là phố Nhật
Tân. Nguồn gốc ăn thịt chó bắt
đầu từ lễ hiến tế chó trong
tín ngưỡng dân gian. Người ăn
đầu tiên là thầy cúng, thầy
phù thủy, họ ăn lén vào lúc
tối trời. Do mặc cảm tội lỗi mà
chẳng ai dám nói toạc ra là ăn
thịt chó. Do kiêng kỵ nên người
ta nói trại là ăn thịt cầy, mộc
tồn (tức là “cây còn”,
cách nói lái của “con cầy”).
Xưa nay, quan niệm của người Việt
vẫn mê tín dị đoan, cho rằng đầu
năm đầu tháng mà ăn thịt chó
thì không tốt, không gặp may mắn,
xui xẻo lắm. Cuối năm, cuối tháng,
hoặc sau khi gặp một chuyện không hay,
mà ăn thịt chó thì lại là
hên, có thể xua đuổi “vận
xui xẻo, đen đủi”. Đúng là
nhảm nhí hết sức!
HÌNH
ẢNH CON CHÓ TRONG KINH THÁNH
Kinh
Thánh gần gũi với cuộc sống của
con người, nghĩa là không xa rời
thực tế. Thiên Chúa rất thực tế.
Thật vậy, Thiên Chúa sử dụng
những gì rất đời thường để
giáo huấn con người chúng ta.![](%5BTet%5D%20N%C4%82M%20TU%E1%BA%A4T%20%E2%80%93%20T%E1%BA%A2N%20M%E1%BA%A0N%20V%E1%BB%80%20CON%20CH%C3%93_html_m721e6e60.jpg)
1.
Cựu Ước
Con
chó được đề cập nhiều
lần và đa dạng. Về việc dâng
của đầu mùa và con đầu
lòng, sách Xuất Hành cho biết huấn
lệnh của Thiên Chúa: “Ngươi
không được chậm trễ dâng phần
hoa màu và rượu nho của ngươi.
Con đầu lòng trong số con cái ngươi,
ngươi sẽ dâng cho Ta. Bò và chiên
cừu của ngươi, ngươi cũng phải
làm thế: con đầu lòng sẽ ở
với mẹ nó bảy ngày, ngày thứ
tám ngươi sẽ dâng nó cho Ta. Các
ngươi sẽ là những người được
thánh hiến cho Ta: thịt con vật bị thú
dữ xé ngoài đồng, các ngươi
đừng ăn, nhưng PHẢI NÉM CHO CHÓ”
(Xh 22:28-30).
Về
việc báo tin các con đầu lòng
sẽ phải chết, ông Mô-sê cho biết:
“Đức
Chúa phán thế này: vào quãng
nửa đêm, Ta sẽ rảo khắp Ai-cập.
Mọi con đầu lòng trong đất Ai-cập
sẽ phải chết, từ con đầu lòng
của vị Pha-ra-ô đang ngồi trên
ngai báu, đến con đầu lòng của
đứa đầy tớ gái ngồi sau cối
xay, đến mọi con đầu lòng của
loài vật. Trong khắp đất Ai-cập,
sẽ vang lên tiếng kêu la như chưa
từng có và không bao giờ có
nữa. Còn nơi mọi con cái Ít-ra-en,
sẽ không có một CON CHÓ nào
sủa, dù sủa người hay sủa thú
vật; như thế, các ngươi sẽ
biết rằng Đức Chúa phân biệt
Ít-ra-en với Ai-cập. Bấy giờ tất
cả các bề tôi của bệ hạ sẽ
xuống tìm tôi, phục xuống lạy
tôi và thưa: xin ông và toàn
dân theo ông ra khỏi nước cho. Sau đó
tôi sẽ đi ra”
(Xh 11:4-8). Kinh Thánh cho biết rằng khi đó
ông Mô-sê đã nổi giận bừng
bừng và ra khỏi cung điện Pha-ra-ô.
Trình
thuật Tl 15:1-5 cho biết về việc ông
Sam-sôn đốt mùa màng của người
Phi-li-tinh bằng cách dùng CHÓ SÓI
làm môi giới: Vào mùa gặt lúa
miến, ông Sam-sôn mang một con dê tơ
đến thăm vợ. Ông nói: “Tôi
muốn vào phòng ngủ của vợ tôi”;
nhưng bố vợ không cho ông vào. Bố
vợ nói: “Thật
sự tôi tưởng là anh đã chán
ghét nó, nên tôi đã trao nó
cho người đã làm phù rể
cho anh. Con em nó lại chẳng khá hơn
nó sao? Vậy để con em thay cho chị nó
đi!”.
Ông Sam-sôn nói với họ: “Lần
này thì tôi vô tội đối với
người Phi-li-tinh, nếu tôi làm hại
chúng”.
Ông Sam-sôn đi bắt ba trăm CON CHÓ
SÓI; lấy đuốc, rồi cột ngược
đuôi con này với đuôi con kia và
buộc một chiếc đuốc giữa hai đuôi.
Ông châm lửa vào đuốc và
lùa CHÓ SÓI vào đồng lúa
chín của người Phi-li-tinh, thiêu rụi
từ gốc rạ cho đến bông lúa,
thiêu cả nho và ô-liu nữa.
Về
việc ông Đa-vít tha chết cho vua Sa-un,
trình thuật 1 Sm 24:1-16 cho biết: Ông
Đa-vít lên khỏi chỗ đó và
ở trên những đỉnh núi Ên
Ghe-đi. Sau khi vua Sa-un đuổi người
Phi-li-tinh và trở về, người ta báo
tin cho vua rằng: “Này
Đa-vít đang ở trong sa mạc Ên
Ghe-đi”.
Vua Sa-un lấy trong toàn thể Ít-ra-en ba
ngàn quân tinh nhuệ, và lên đường
để tìm bắt ông Đa-vít và
người của ông, ở phía đông
các Mỏm Đá Sơn Dương. Vua đến
các bãi quây chiên dê bên
đường. Ở đó có một cái
hang và vua Sa-un vào đó để đi
việc cần. Ông Đa-vít và người
của ông đang ngồi ở cuối hang.
Người của ông Đa-vít nói
với ông: “Đây
là ngày Đức Chúa phán với
ông: Này ta trao kẻ thù của ngươi
vào tay ngươi, ngươi sẽ đối
xử với nó thế nào tuỳ ý”.
Ông Đa-vít đứng dậy và cắt
vạt áo khoác của vua Sa-un. Sau đó,
ông Đa-vít áy náy trong lòng
vì đã cắt vạt áo của vua
Sa-un. Ông bảo người của ông: “Xin
Đức Chúa đừng để tôi
làm điều này cho chúa thượng
của tôi, đấng Đức Chúa đã
xức dầu tấn phong, là tra tay hại vua,
vì người là đấng Đức
Chúa đã xức dầu tấn phong”.
Nhờ những lời ấy, ông Đa-vít
đã ngăn chặn người của ông,
không để cho họ xông vào vua
Sa-un.
Sau
đó, ông Đa-vít đứng lên,
ra khỏi hang và kêu đằng sau vua Sa-un
rằng: “Thưa
đức vua là chúa thượng con!”.
Vua Sa-un ngoái lại đằng sau. Ông
Đa-vít sấp mặt sát đất mà
lạy. Ông Đa-vít nói với vua
Sa-un: “Tại
sao cha lại nghe lời người ta nói rằng
Đa-vít đang tìm cách hại cha?Hôm
nay đây, chính mắt cha thấy Đức
Chúa đã trao cha vào tay con, hôm
nay, trong hang; người ta nói đến chuyện
giết cha, nhưng con đã thương hại
cha và nói: Tôi sẽ không tra tay hại
chúa thượng tôi, vì người
là đấng Đức Chúa đã
xức dầu tấn phong. Thưa cha, xin nhìn
xem, vâng, xin nhìn xem vạt áo choàng
của cha trong tay con. Vì con đã cắt
áo choàng của cha và không giết
cha, xin cha biết và thấy cho rằng tay con
không làm điều ác, điều
lỗi, và con đã không phạm tội
hại cha, trong khi cha mưu toan lấy mạng sống
con. Xin Đức Chúa phân xử giữa
con và cha và xin Đức Chúa phạt
cha để trả thù cho con, nhưng tay con sẽ
không đụng đến cha. Như tục
ngữ người xưa có nói: ‘Điều
ác từ kẻ ác mà ra’, nên
tay con sẽ không đụng đến cha. Đức
vua Ít-ra-en đã ra trận để đánh
ai? Cha đuổi theo ai? Một CON CHÓ chết!
Một con bọ chét! Đức Chúa sẽ
là trọng tài, Người sẽ phân
xử giữa con và cha. Xin Người nhìn
xem và biện hộ cho con, xin Người phân
xử để con thoát khỏi tay cha!”.
Đề
cập con chó, sách Samuel cho biết: Khi ông
Mơ-phi-bô-sét, con ông Giô-na-than,
cháu vua Sa-un, đến gặp vua Đa-vít,
ông cúi rạp xuống mà lạy. Vua
Đa-vít gọi: “Mơ-phi-bô-sét!”.
Ông thưa: “Dạ,
tôi tớ ngài đây!”.
Vua Đa-vít bảo ông: “Đừng
sợ! Vì ông Giô-na-than, cha cháu, ta
muốn lấy tình mà đối xử
với cháu. Ta sẽ trả cho cháu tất
cả ruộng đất của vua Sa-un, ông
của cháu. Phần cháu, cháu sẽ
luôn luôn dùng bữa tại bàn ăn
của ta”.
Ông lạy và nói: “Tôi
tớ ngài là gì, mà ngài quay
về phía một CON CHÓ chết như
cháu?”
(2 Sm 9:6-8).
Trình
thuật Tb 6:1-6 cho biết điều thú vị:
Người mẹ đã khóc khi ông
Tô-bít sai con trai Tô-bi-a ra đi, nhưng
có thiên sứ cùng đi với cậu,
ngay cả CON CHÓ cũng ra đi với cậu
và cùng đi với hai người đồng
hành. Họ cùng đi, và đêm
thứ nhất, họ qua đêm bên bờ
sông Tích-ra. Chàng thanh niên xuống
sông Tích-ra rửa chân, có con cá
lớn nhảy vọt lên khỏi mặt nước
chực táp bàn chân cậu. Cậu la
lên. Thiên sứ bảo cậu: “Hãy
chộp lấy con cá và nắm cho chặt”.
Cậu nắm chặt con cá và đem nó
lên bờ. Thiên sứ bảo: “Mổ
bụng cá ra, lấy mật, tim, gan và giữ
nó bên mình, còn ruột thì
quăng đi, vì mật, tim, gan của nó
làm ra được thứ thuốc công
hiệu”.
Cậu Tô-bi-a mổ bụng cá lấy mật,
tim, gan, nướng một phần con cá để
ăn và dành ra một phần đem ướp
muối. Cả hai người cùng đi với
nhau cho đến khi gần tới Mê-đi..
Về
việc chữa mắt ông Tô-bít, cũng
thấy con chó xuất hiện. Trình thuật
Tb 11:1-4 kể: Khi họ gần tới Ca-xe-rin, đối
diện với Ni-ni-vê, thiên sứ Ra-pha-en
nói: “Em
biết chúng ta đã để cha em ở
lại trong tình trạng nào. Chúng ta
hãy chạy lên trước vợ em, chuẩn
bị nhà cửa, trong lúc những người
kia đang tới”.
Cả hai người cùng đi, và thiên
sứ nói: “Hãy
cầm mật cá trong tay”.
Có CON CHÓ theo sau thiên sứ và
Tô-bi-a.
Trong
cuộc hội ngộ lần đầu giữa bà
Giu-đi-tha và tướng Hô-lô-phéc-nê,
lời lẽ của bà Giu-đi-tha làm vừa
lòng tướng Hô-lô-phéc-nê
và các võ quan của ông, họ
thán phục trí khôn ngoan của bà
và nói: “Tôi
sẽ hướng dẫn ngài đi khắp xứ
Giu-đê cho tới khi đến thành
Giê-ru-sa-lem. Tôi sẽ đưa chiến xa
của ngài vào giữa thành. Họ
như đàn chiên không người
chăn dắt, nhưng chính ngài sẽ
chăn dắt họ. Sẽ không có một
CON CHÓ nào dám sủa trước mặt
ngài. Vì tất cả những điều
ấy, tôi đã được linh tính
báo cho biết và tôi được
sai đến thuật lại cho ngài”
(Gđt 11:19).
Sách
Châm Ngôn gồm những lời giáo
huấn giá trị về mọi lĩnh vực,
hình ảnh con chó cũng được
ví von: “Roi
dành cho ngựa, hàm thiếc cho lừa, đòn
vọt dành cho lưng đứa ngu xuẩn.
Đừng đáp lại đứa ngu theo cái
ngu của nó, kẻo chính con cũng lại
giống nó thôi. Hãy đáp lại
đứa ngu theo cái ngu của nó, kẻo
nó cứ tưởng là nó khôn.
Nhờ đứa ngu chuyển giùm sứ điệp
chẳng khác chi tự chặt chân mình
và gánh lấy biết bao tai hoạ. Đứa
dốt mở miệng nói khôn nói ngoan
thì cũng như anh què đi khập
khiễng. Bày tỏ lòng kính trọng
đứa ngu chẳng khác chi cột sỏi
vào ná bắn. Đứa dốt mở
miệng nói khôn nói ngoan chẳng khác
gì kẻ say vung cành gai mà múa. Ai
mướn kẻ ngu hay người say thì cũng
ví tựa kẻ bắn cung gây thương
tích cho mọi người qua lại. CON CHÓ
quay lại chỗ nó mửa, đứa ngu lặp
lại chuyện ngu đần”
(Cn 26:3-11). Và nói về những kẻ lắm
chuyện: “Xen
vô chuyện của người khác nào
kéo tai CHÓ chạy rông”
(Cn 26:17).
Mọi
người đều như nhau, hoàn toàn
bình đẳng trước mặt Thiên
Chúa, và cùng chung một số phận,
dù đó là ai, nhưng có điều
khác một chút: “Chỉ
những ai còn sống trong cõi dương
gian mới có hy vọng mà thôi, vì
CON CHÓ sống thì hơn con sư tử
chết”
(Gv 9:4). Trắng với đen không thể hòa
hợp, tốt với xấu không thể chung
đường. Kinh Thánh đặt vấn đề:
“Sói
sống chung với chiên sao được? Kẻ
tội lỗi với người đạo hạnh
cũng thế. Hoà bình sao được
giữa CHÓ RỪNG và CHÓ NHÀ? Và
hoà bình sao được giữa kẻ
giàu sang với người lam lũ?”
(Hc 13:17-18). Mỗi chúng ta phải tự trả
lời, và tất nhiên đòi hỏi
phải có hệ lụy kèm theo.
Đời
là bể khổ. Ai cũng có kinh nghiệm
này. Nhưng với niềm tin, đau khổ
có thể trở thành phúc lành.
Khi gặp đau khổ, người lành than
van kêu cứu: “Nghe
cổ họng khô ran như ngói, lưỡi
với hàm dính lại cùng nhau, chốn
tử vong Chúa đặt vào; quanh con BẦY
CHÓ đã bao chặt rồi. Bọn ác
đó trong ngoài vây bủa, chúng
đâm con thủng cả chân tay, xương
con đếm được vắn dài; chúng
đưa cặp mắt cứ hoài ngó
xem”
(Tv 22:16-18). Đó là lời tiên tri về
Người-Tôi-Trung-Đau-Khổ: Đức
Giêsu Kitô.
Thiên
Chúa thấu suốt mọi sự (1
Sbn 28:9b;
Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb
15:2; G 28:27; Tv 139:2; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23;
Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 11:20; Gr 20:12; 1
Cr 2:10; 1
Cr 12:4-6; 1
Ga 3:20),
và Ngài không hề làm ngơ bất
cứ ai, nhất là những kẻ hèn
mọn, đau khổ. Thi
sĩ Paul Claudel (1868-1955, người Pháp)
nhận định rất chí lý: “Thiên
Chúa
xuống thế không để diệt trừ
đau khổ, cũng không giải nghĩa đau
khổ, mà để chia sớt đau khổ”.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải cầu xin
để minh chứng lòng tín thác:
“Xin
cứu mạng khỏi sa lưỡi kiếm, gỡ
thân con thoát miệng CHÓ RỪNG, khỏi
nanh sư tử hãi hùng, phận hèn
khốn khổ thoát sừng trâu điên”
(Tv 22:21-22).
Nói
về kẻ thù, Thánh Vịnh gia thổ
lộ: “Chiều
đến, chúng trở lại tru lên như
CHÓ và chạy rông khắp thành.
Chiều đến, chúng trở lại, tru lên
như CHÓ và chạy rông khắp thành”
(Tv 59:7 và 15). Thuở xưa, Thiên Chúa
đã phán: “Từ
Ba-san Ta dẫn đưa về, dẫn đưa
về từ đáy biển thẳm sâu, để
cho ngươi dầm chân trong máu, BẦY
CHÓ của ngươi đưa lưỡi
liếm thây thù”
(Tv 68:23-24). Đó là lòng thương
xót của Ngài – Đấng là
tình yêu luôn ở trong những ai tôn
thờ Ngài hết lòng.
2.
Tân Ước
Chúa
Giêsu có tính cách thẳng thắn,
nói thật, không vòng vo tam quốc,
không nói bóng gió chi cả. Những
ai lươn lẹo, mưu mô và giả
hình thì không thích Ngài –
cụ thể là nhóm Pha-ri-sêu và
Sa-đốc. Thời nay cũng thế thôi.
Thật vậy, Ngài đã từng nghiêm
nghị nói thẳng: “Của
thánh, đừng quăng cho CHÓ; ngọc
trai, chớ liệng cho heo, kẻo chúng giày
đạp dưới chân, rồi còn quay
lại cắn xé anh em”
(Mt 7:6). Nghe rất “sốc”, nhưng sự
thật vẫn mãi là sự thật. Điều
quan trọng là Chúa Giêsu muốn chúng
ta kiên trì cầu nguyện trong mọi hoàn
cảnh, và Ngài hứa: “Anh
em cứ xin thì sẽ được, cứ
tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa
thì sẽ mở ra cho. Vì hễ ai xin thì
nhận được, ai tìm thì sẽ
thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở ra
cho. Có người nào trong anh em, khi con mình
xin cái bánh, mà lại cho nó hòn
đá? Hoặc nó xin con cá, mà lại
cho nó con rắn? Vậy nếu anh em vốn là
những kẻ xấu mà còn biết cho
con cái mình những của tốt lành,
phương chi Cha anh em, Đấng ngự trên
trời, lại không ban những của tốt
lành cho những kẻ kêu xin Người
sao?”
(Mt 7:7-11; Lc 11:9-13).
Lời
hứa đó đa được thực hiện
cho cô con gái của người đàn
bà Ca-na-an kiên trì (Mt 15:21-28). Hôm đó,
khi Đức Giêsu lui về miền Tia và
Xi-đôn, có một người đàn
bà Ca-na-an kêu lên rằng: “Lạy
Ngài là con vua Đa-vít, xin dủ lòng
thương tôi! Đứa con gái tôi
bị quỷ ám khổ sở lắm!”.
Nhưng Người không đáp lại một
lời. Người nói với các môn
đệ: “Thầy
chỉ được sai đến với những
con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà
thôi”.
Nhưng bà ấy vẫn đến bái lạy
và thưa: “Lạy
Ngài, xin cứu giúp tôi!”.
Người đáp: “Không
nên lấy bánh dành cho con cái mà
ném cho LŨ CHÓ CON”.
Bà ấy không hề tự ái và
nói: “Thưa
Ngài, đúng thế, nhưng mà LŨ
CHÓ CON cũng được ăn những
mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”.
Bấy giờ Đức Giêsu đáp: “Này
bà, lòng tin của bà mạnh thật.
Bà muốn sao thì sẽ được
vậy”.
Đúng ngay lúc đó, con gái bà
được khỏi.
Cũng
câu chuyện này, Thánh Máccô
cho biết thêm một chi tiết rằng người
đàn bà đó là người
gốc Phê-ni-xi, xứ Xy-ri (Mc 7:24-30). Như vậy,
có lẽ bà là dân nhập cư
vào vùng Ca-na-an. Thánh Máccô cho
biết chi tiết hơn về việc cô con
gái thoát khỏi quỷ ám bằng
chính lời Chúa Giêsu nói: “Vì
bà nói thế, nên bà cứ về
đi, quỷ đã xuất khỏi con gái
bà rồi”
(Mc 7:29).
Có
lẽ hình ảnh CON CHÓ “nổi bật”
nhất trong dụ ngôn Ông Nhà Giàu
và Anh La-da-rô Nghèo Khó (Lc 16:19-31).
Thánh Luca tường thuật: Có một
ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa
là gấm vóc, ngày ngày yến
tiệc linh đình. Lại có một người
nghèo khó tên là La-da-rô, mụn
nhọt đầy mình, nằm trước
cổng ông nhà giàu, thèm được
những thứ trên bàn ăn của ông
ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại
thêm MẤY CON CHÓ cứ đến liếm
ghẻ chốc anh ta. Thế rồi người
nghèo này chết, và được
thiên thần đem vào lòng ông
Áp-ra-ham. Ông nhà giàu cũng chết,
và người ta đem chôn.
Dưới
âm phủ, đang khi chịu cực hình,
ông ta ngước mắt lên, thấy tổ
phụ Áp-ra-ham ở tận đàng xa, và
thấy anh La-da-rô trong lòng tổ phụ.
Bấy giờ ông ta kêu lên: “Lạy
tổ phụ Áp-ra-ham, xin thương xót
con, và sai anh La-da-rô nhúng đầu
ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi
con cho mát; vì ở đây con bị lửa
thiêu đốt khổ lắm!”.
Ông Áp-ra-ham đáp: “Con
ơi, hãy nhớ lại: suốt đời
con, con đã nhận phần phước của
con rồi; còn La-da-rô suốt một đời
chịu toàn những bất hạnh. Bây
giờ, La-da-rô được an ủi nơi
đây, còn con thì phải chịu khốn
khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây
và các con đã có một vực
thẳm lớn,
đến nỗi bên này muốn qua bên
các con cũng không được, mà
bên đó có qua bên chúng ta đây
cũng không được”.
Ông
nhà giàu nói: “Lạy
tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ
sai anh La-da-rô đến nhà cha con, vì
con hiện còn năm người anh em nữa.
Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo
họ lại cũng sa vào chốn cực hình
này!”.
Ông Áp-ra-ham đáp: “Chúng đã
có Mô-sê và các Ngôn Sứ,
chúng cứ nghe lời các vị đó”.
Ông nhà giàu nói: “Thưa
tổ phụ Áp-ra-ham, họ không chịu
nghe đâu, nhưng nếu có người
từ cõi chết đến với họ, thì
họ sẽ ăn năn sám hối”.
Ông Áp-ra-ham đáp: “Mô-sê
và các Ngôn Sứ mà họ còn
chẳng chịu nghe thì người chết có
sống lại, họ cũng chẳng chịu tin”.
Trong
dụ ngôn này, CON CHÓ chỉ là
phụ, điều quan trọng là vấn đề
liên quan đức ái. Chính đức
ái là “khoảng cách” mà
chúng ta phải lấp đầy, nếu không
thì đời đời không thể qua
lại được!
VĨ
NGÔN
Đây
là một câu chuyện đời thường
có công của một CHÚ CHÓ. Câu
chuyện hy hữu này xảy ra tại Autralia
năm 2017, khi anh David Kenney và gia đình
tới Brisbane để thăm bạn bè.
Trong
lúc người lớn trò chuyện rất
vui vẻ, đột nhiên CHÚ CHÓ Leala
chạy vào, toàn thân nó ướt
đẫm, liên tục cất tiếng sủa
vang, dáng vẻ rất gấp gáp. Lúc
này, anh David bỗng nhiên cảm thấy có
chuyện gì đó không ổn. Chú
chó Leala đã 9 tuổi, bình thường
nó là một con chó cưng rất thân
thiện, hiểu chuyện. Khi nó có biểu
hiện khác thường như vậy, nhất
định đã có chuyện gì đó
xảy ra.
Nghĩ
như vậy, David lập tức đứng dậy,
anh cùng bạn bè của mình chạy
theo Leala đến đập nước gần đó
và phát hiện một sự thật đáng
sợ. Cảnh tượng rùng rợn bày
ra trước mắt khiến trái tim anh David
như bị ai đó bóp chặt, muốn
vỡ ra. Dưới nước, cậu con trai
Alexander 2 tuổi của David đang nổi trên
mặt nước, bất tỉnh.
David
vội vã nhảy xuống cứu con. Sau khi đưa
được Alexander lên bờ, anh cùng
vài người khác thay nhau làm hồi
sức cho cậu bé suốt 27 phút, và
họ gọi cấp cứu cho tới lúc nhân
viên cứu hộ đến nơi.
Sau
khi được đưa đến bệnh viện
bằng trực thăng, cha mẹ Alexander được
các bác sĩ cho biết rằng tình
huống của cậu bé rất nghiêm
trọng, có thể tỉnh lại đã
là điều may mắn, kể cả khi đã
thoát khỏi cửa tử thì có thể
Alexander sẽ bị tổn thương não. Dù
sao thì CHÚ CHÓ Leala vẫn có công
lớn trong việc cấp cứu một con người.
Thiên Chúa luôn quan phòng mọi sự!
Lạy
Thiên Chúa, năm cũ đã qua, năm
mới vừa tới. Con xin lỗi Ngài về
những thiếu sót trong năm qua, xin Ngài
tha thứ, xin giúp con tống cựu để
nghinh tân và chấn chỉnh trong năm mới
này theo đúng Tôn Ý Ngài. Con
cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô,
Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
TRẦM
THIÊN THU
Xuân
Mậu Tuất – 2018
|