NIỀM
HY VỌNG
(Chúa
nhật VI Thường niên, năm B)
Niềm
hy vọng là nhân đức trông cậy
– một trong ba nhân đức đối
thần. Người Pháp có câu:
“Vouloir,
c’est pouvoir”
(muốn là có thể được). Còn
với Thiên Chúa, tất cả đều
nhờ đức tin (x. Mt 9:22; Mc 5:34; Lc 8:48; Lc 17:18;
Lc 18:42), và tất cả đều có thể:
“Đối
với Thiên Chúa, không có gì là
không thể làm được”
(Lc 1:37).
Về
đức cậy, Thánh TS Augustinô cho biết:
“Đức
cậy khuyến cáo chúng ta coi nhẹ đời
này là hư ảo, hy vọng tương
lai là hạnh phúc. Người nào đem
hy vọng của họ ký thác nơi chóng
qua như mây khói ở đời này,
đó là đi ngược lại đức
cậy”.
Còn Thánh TS Terese Avila xác định:
“Thiên
Chúa yêu thích những linh hồn khẳng
khái nhưng ước vọng vĩ đại”.
Trong
ca khúc “Tôi Muốn”, NS Lê Hựu
Hà có những ước muốn rất
“khác người”, nhưng lại rất
gần gũi với Công giáo: “Tôi
muốn mình tìm đến thiên nhiên,
tôi muốn sống như loài hoa hiền.
Tôi muốn làm một thứ cỏ cây,
vui trong gió và không ưu phiền. Tôi
muốn mọi người biết thương
nhau, không oán ghét không gây hận
sầu. Tôi muốn đời hết nghĩa
thương đau, tôi muốn thấy tình
yêu ban đầu. Em có thấy hoa kia mới
nở, trong giây phút nhưng đẹp
tuyệt vời, như hạnh phúc thoáng
qua mất rồi, giờ đâu còn tìm
được nét vui…”.
Ước muốn luôn là điều quan
trọng. Có ước muốn thì mới
có thể quyết định hành động.
GIẢ
THUYẾT
Chỉ
vì không có, vì thiếu cái gì
đó nên người ta mới ước
muốn, khao khát. Bất cứ ai cũng có
ước muốn, dù ước muốn đó
nhỏ hay lớn, gần hay xa. Rõ ràng nhất
là những bệnh nhân, ước muốn
đơn giản và cụ thể là được
khỏi bệnh. Ngày nay người ta rất
sợ chứng ung thư, còn ngày xưa
người ta “ngán” chứng phong hủi
(cùi). Chính Đức Chúa nói với
ông Môsê và ông Aharon: “Khi
trên da thịt người nào phát ra
nhọt, lác hoặc đốm, và cái
đó trở thành vết thương
phong hủi, thì người ta sẽ đưa
người ấy đến với tư tế
Aharon hoặc với một trong các tư tế,
con của Aharon”
(Lv 13:1-2). Theo sách Lêvi, người nào
hói đầu hoặc sói trán là
người thanh sạch (Lv 13:40-41). Nhưng nếu
chỗ hói đầu hoặc sói trán
có vết thương trắng đỏ nhạt
thì đó lại là phong hủi loang
ra (Lv 13:42).
Hồi
đó, các bệnh nhân phong bị người
ta xa lánh, khi tư tế khám, nếu nhọt
ở vết thương có màu trắng
đỏ nhạt ở chỗ sói đầu
hoặc sói trán, trông giống như
phong hủi da thịt thì người ấy bị
phong hủi và bị coi là ô uế.
Người mắc bệnh phong hủi phải mặc
áo rách, xoã tóc, che râu và
kêu lên: “Ô
uế! Ô uế!”
(Lv 13:45). Theo luật xưa, “bao lâu còn
mắc bệnh thì còn ô uế, người
đó phải ở riêng ra, chỗ ở
của họ là một nơi bên ngoài
trại” (Lv 13:46). Khổ thật!
Như
vậy là khắt khe và bất nhân
quá! Ngày xưa đã đành vậy,
vì là thời Cựu ước; ngày
nay cũng chẳng hơn gì, mặc dù là
thời Tân ước, và mặc dù
chúng ta mệnh danh là những người
theo Đạo Yêu Thương. Thánh Lm Gioan
Vianney phân tích: “Lý
do chúng ta không có cách giải quyết
tốt là vì chúng ta coi trọng mình
quá nhiều”.
Ôi, vẫn liên quan “cái tôi”
đáng ghét!
Bệnh
phong là laoị bệnh ghê gớm, ngày
xưa là chứng nan y. Ngày nay, bệnh
phong không còn đáng sợ, mà
chứng nan y đáng sợ là ung thư
hoặc HIV/AIDS. Tuy nhiên, đó là bệnh
liên quan thể lý. Loại phong cùi,
chứng ung thư hoặc HIV ghê gớm nhất
chính là tội lỗi, thế nhưng có
vẻ người ta lại… không sợ.
Quái lạ!
Đối
với các tù nhân, ngày được
phóng thích giống như thoát khỏi
địa ngục trần gian. Các bệnh nhân
được khỏi bệnh như được
tái sinh. Các tội nhân được
tha thứ như được vào thiên
đàng. Niềm hạnh phúc khác nhau
nhưng có thể nói là họ có
chung “đỉnh điểm” của niềm
hạnh phúc, khó có thể diễn tả
bằng ngôn ngữ loài người. Thật
vậy, “hạnh phúc thay, kẻ lỗi lầm
mà được tha thứ, người có
tội mà được khoan dung, người
Chúa không hạch tội, và lòng
trí chẳng chút gian tà” (Tv 32:1-2).
Muốn chứng tỏ mình hết phong cùi
thì phải trình diện tư tế. Muốn
chứng tỏ mình sạch tội thì phải
xưng thú tội lỗi. Tuy nhiên, khi “xưng
tội ra với Chúa thì không được
giấu giếm lầm lỗi của mình”
(x. Tv 32:5). Chúa không hề chấp tội
chúng ta (2 Cr 5:19), đó là điều
chắc chắn, bởi vì chính Ngài
đã hứa: “Tội
các người dù có đỏ như
son, cũng ra trắng như tuyết; có thẫm
tựa vải điều, cũng hoá trắng
như bông”
(Is 1:18). Nếu Chúa chấp tội nào ai
đứng vững? (Tv 130:2). Ôi, Lòng Thương
Xót của Thiên Chúa quá bao la!
Thánh
TS Augustinô phân tích: “Chúa
dựng nên con thì Chúa không cần
con, nhưng Chúa cứu độ con thì
Chúa cần con”.
Tại sao? Giả sử bạn sa xuống hố
mà chỉ kêu cứu, cứ thụ động
mà không chịu hợp tác thì ai
có thể cứu? Ít ra bạn cũng phải
đưa tay ra cho người ta kéo lên
chứ! Chúa muốn mà chúng ta không
muốn thì Chúa cũng… “bó
tay”. “Bó tay” ở đây không
có nghĩa là Chúa “bất lực”,
không làm gì được, nhưng
Chúa không ép ai, bởi vì Ngài
hoàn toàn cho phép chúng ta trọn
quyền tự do chọn lựa và quyết
định số phận đời mình. Đó
mới là điều chúng ta đáng
quan ngại!
Là
phàm nhân thì ai cũng là tội
nhân, vì đã có “vốn tội”
rồi: “Lúc
chào đời con đã vương lầm
lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài
thai”
(Tv 51:7). Vì thế, không ai hơn ai trước
mặt Thiên Chúa, chỉ hơn nhau ở
chỗ “biết sám hối hay không”.
Ngài luôn chờ chúng ta ăn năn sám
hối. Hãy tự nhủ: “Nào
ta đi thú tội với Chúa”
(Tv 32:5), và chính Ngài sẽ tha thứ
tội vạ cho chúng ta, chứ không ai có
quyền tha tội. Được tha tội và
tin mình sạch tội sẽ trở nên
công chính, vì chỉ “nhờ đức
tin mà người ta nên công chính”
(Rm 3:21; Rm 5:1; Rm 9:30; Rm 9:32; Rm 10:6; Gl 3:24; Dt 11:7). Và
vì thế: “Hỡi
những người công chính, hãy vui
lên trong Chúa, hãy nhảy mừng. Mọi
tâm hồn ngay thẳng, nào cất tiếng
hò reo”
(Tv 32:11). Các vị thánh lớn đều
là những “tội nhân thánh
thiện”: Thánh vương Đavít,
Thánh GH tiên khởi Phêrô, Thánh
Phaolô, Thánh Augustinô,… và “độc
đáo” nhất là “thánh trộm
cướp khét tiếng” cùng bị
đóng đinh với Chúa Giêsu trên
đồi Canvê. Điều đó cho thấy
rằng nếu thực sự ước muốn
thì chúng ta sẽ được sạch,
nếu chân thành xin lỗi Chúa thì
Ngài sẽ tha ngay lập tức!
Tuy
nhiên, có 2 trạng thái “liên
lụy tội lỗi” mà chúng ta cần
phải lưu ý:
1.
ĐỪNG gây nguy hiểm cho linh hồn mình
bằng cách CAN DỰ VÀO TỘI LỖI
CỦA NGƯỜI KHÁC.
2.
ĐỪNG gây nguy hiểm cho linh hồn người
khác bằng cách LÔI KÉO HỌ VÀO
TỘI LỖI CỦA MÌNH.
Có
những giả thuyết mãi mãi là
giả thuyết, nhưng có những giả
thuyết lại khả dĩ trở thành sự
thật – một sự thật minh nhiên
hoặc mặc nhiên.
SỰ
THẬT
Người
ta sẽ chú tâm hành động sau khi
đã ước muốn, như thánh
Phaolô dạy: “Dù
ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc
gì, anh chị em hãy làm tất cả
để tôn vinh Thiên Chúa”
(1 Cr 10:31). Vâng, làm để tôn vinh
Thiên Chúa chứ không vì lý do
gì khác, và “đừng làm
gương xấu cho bất cứ ai” (1 Cr
10:32), dù người đó cùng đạo
hay khác đạo với mình, thậm chí
có vẻ không liên quan tới mình.
Ai cũng phải “cố gắng làm đẹp
lòng mọi người, không tìm ích
lợi cho riêng tôi, nhưng cho nhiều
người, để họ được cứu
độ” (1 Cr 10:33). Thật là khó
chứ không hề đơn giản, thế
nhưng ai cũng phải cố gắng thực
hiện. Nếu cảm thấy khó thì hãy
theo lời nhắn nhủ của Thánh Phaolô:
“Anh
chị em hãy bắt chước tôi, như
tôi bắt chước Đức Kitô”
(1 Cr 11:1).
Thật
tuyệt vời với cách nhận định
của thi sĩ Paul Claudel (*) đậm “chất”
đức tin: “Chúa
xuống thế KHÔNG để diệt trừ
khổ đau, cũng KHÔNG giải nghĩa khổ
đau, mà để CHIA SỚT khổ đau”.
Đó là một triết lý mang tính
giáo lý cao cấp.
Trong
các “mối khổ”, chắc chắn
ai cũng biết rằng bệnh là khổ –
dù bệnh thể lý hay tinh thần. Riêng
bệnh phong thì bệnh nhân rất khổ
sở, không chỉ khổ vì đau đớn
thể lý mà còn đau khổ về
tinh thần vì bị người ta xa lánh.
Bệnh nhân phong rất đau đớn vào
những mùa trăng, thế nên Hàn Mặc
Tử đã “rao bán” trăng: “Ai
mua trăng, tôi bán trăng cho”.
Thấy Chúa Giêsu là một “dị
nhân”, chắc chắn với lòng tin
mạnh mẽ nên bệnh nhân phong đã
đến gặp Người và quỳ xuống
van xin: “Nếu
Ngài muốn, Ngài có thể làm
cho tôi được sạch”
(Mc 1:40). Người chạnh lòng thương
giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi
muốn, anh sạch đi!”
(Mc 1:41). Và phép lạ đã xảy
ra: Chứng phong hủi biến khỏi anh ngay lập
tức. Nhưng Ngài nghiêm giọng: “Coi
chừng, đừng nói gì với ai cả,
nhưng hãy đi trình diện tư tế,
và vì anh đã được lành
sạch, thì hãy dâng những gì
ông Môsê đã truyền, để
làm chứng cho người ta biết”
(Mc 1:44).
Chúa
Giêsu không hề làm ảo thuật mà
làm phép lạ thật, Ngài cũng
không muốn chứng tỏ “đẳng
cấp” mà chỉ muốn chứng tỏ
lòng yêu thương, Ngài luôn tôn
trọng luật pháp xã hội thời đó,
Ngài muốn làm gương cho người
khác về đức vâng lời. Vả
lại, Ngài biết những người “tai
to mặt lớn” sẽ tìm cách hại
Ngài chỉ vì tính nhỏ nhen, vì
lòng ghen ghét. Con gà tức nhau tiếng
gáy, thấy người khác hơn mình
thì mình “không ưa”, tìm
cách trù dập, hoặc “không ăn
được thì đạp đổ”,
đó là tình trạng tệ hại
của con người vì “cái tôi”
quá lớn, nó che khuất mọi tầm
nhìn mất rồi. Đúng như một
danh nhân đã nhận xét: “Chỉ
có người giỏi mới chân nhận
tài năng của người khác”.
Kinh Thánh nói: “Con
chó quay lại chỗ nó mửa, đứa
ngu lặp lại chuyện ngu đần”
(Cn 26:11).
Hữu
xạ tự nhiên hương. Mùi hương
thơm có sức lan tỏa. Tiếng lành
cũng được đồn xa. Đèn
sáng rất dễ nhìn thấy. Thế nên
vừa mới ra khỏi đó, bệnh nhân
phong được chữa lành kia “bắt
đầu rao truyền và tung tin khắp nơi,
đến nỗi Chúa Giêsu không thể
công khai vào thành nào được,
mà phải ở lại những nơi hoang
vắng ngoài thành, và dân chúng
từ khắp nơi kéo đến với
Ngài” (Mc 1:45). Chúa Giêsu đúng
là một “siêu sao” kỳ diệu!
Lạy
Thiên Chúa là Đấng trung tín,
xin ban thêm các nhân đức cần
thiết cho con, xin thanh tẩy và thánh hóa
con bởi vì con ô uế nhưng thật
lòng ước muốn được nên
sạch, mặc dù bất xứng nhưng con
thành tâm tín thác vào Ngài.
Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu
Kitô, Thiên Chúa của nhân loại.
Amen.
TRẦM
THIÊN THU
(*)
Paul Louis Charles Marie Claudel (người Pháp,
6/8/1868 – 23/2/1955). Ông là nhà
ngoại giao, nhà văn, nhà thơ, và
từng được đăng hình trên
bìa báo Time. Ông sinh ở
Villeneuve-sur-Fère, trong gia đình một công
chức tỉnh lẻ. Chị của ông là
nhà điêu khắc Camille Claudel. Năm 1893,
ông làm ở Bộ Ngoại giao Pháp,
từng làm lãnh sự và đại
sứ ở nhiều nước Âu châu,
Á châu, Mỹ châu. Ông được
tặng thưởng huân chương Đại
thập tự, và năm 1946 được bầu
làm viện sĩ Viện hàn lâm Pháp.
Ông được coi là nhà thơ cuối
cùng của phái ấn tượng, có
khuynh hướng hoài cổ và tôn
giáo. Chính ông cho biết rằng cuốn
sách gối giường của ông là
Kinh Thánh, và tất cả sáng tác
của ông làm thành một cuốn Kinh
Thánh mới. Ông không quan tâm “người
nào là ai” mà “người đó
là người nào”. Ông thể
hiện nhịp điệu tự nhiên của
trái tim và hơi thở con người.
Nhiều vở kịch của ông được
dựng thành phim cũng nổi tiếng.
|