NỖI
NIỀM PHÀM NHÂN
(Chúa
nhật V Thường niên, năm B)
Không
ai lại không có nỗi niềm. Đó
là mối tâm sự riêng, đôi
khi khó nói ra. Nỗi niềm còn gọi
là “khúc nhôi” (*). Là phàm
nhân, mỗi chúng ta có nhiều nỗi
niềm lắm, bởi vì “đời là
bể khổ” mà!![](%5BCN%2005%20TN-B%5D%20N%E1%BB%96I%20NI%E1%BB%80M%20PH%C3%80M%20NH%C3%82N_html_m58fba985.jpg)
Đã
đành người đời cảm thấy
đời người đầy gian khổ, mà
Kinh Thánh cũng công nhận như thế.
Thật vậy, sách Huấn ca gọi kiếp
phàm nhân là “kiếp khốn khổ”:
“Kể
từ khi từ lòng mẹ sinh ra cho đến
lúc trở về lòng đất mẹ,
mang thân phận con người, ai cũng canh
cánh bên lòng một nỗi lo, là
con cháu Ađam, nợ phong trần đương
nhiên phải trả. Điều không ngừng
ám ảnh khiến lòng người sợ
hãi âu lo là cứ phải nghĩ rằng
mình đang chờ chết. Từ bậc vua
chúa trên ngai vinh hiển đến kẻ
cùng đinh chân lấm tay bùn, từ
người cân đai áo mão đến
kẻ khố rách áo ôm, ai cũng đều
giận dữ, ghen tương, băn khoăn, lo
lắng, rồi sợ chết, rồi hận thù
cãi cọ”
(Hc 40:1-4).
Ôi
chao, nghe sao mà “não lòng” quá!
Tuy nhiên, “Chúa vẫn xót thương,
thứ tha, không tiêu diệt, nén giận
đã bao lần, chẳng khơi bùng nộ
khí. Người vẫn nhớ thân phận
chúng bọt bèo mỏng mảnh, gió
thoảng qua, không hẹn ngày về”
(Tv 78:38-39). Thế thì lại không buồn,
mà vẫn tín thác, mặc dù cuộc
đời vẫn ngổn ngang bao nỗi niềm
của kiếp phàm nhân.
KHÓ
KHĂN KÈM KHỐN KHỔ
Có
lẽ chẳng ai khốn khổ bằng ông
Gióp. Ông đã lâm cảnh khó
khăn đến tột cùng, và chịu
khốn khổ quá đỗi, vì ngay cả
người vợ cũng nguyền rủa ông.
Là con người nên ông cũng cảm
thấy buồn, nên ông đặt vấn
đề: “Cuộc
sống con người nơi dương thế
chẳng phải là thời khổ dịch sao?
Và chuỗi ngày lao lung vất vả đâu
khác gì đời kẻ làm thuê?”
(G 7:1), và đó cũng chính là
câu trả lời. Rồi ông so sánh:
“Tựa
người nô lệ mong bóng mát, như
kẻ làm thuê đợi tiền công.
Gia tài của tôi là những tháng
vô vọng, số phận của tôi là
những đêm đau khổ ê chề”
(G 7:2-3). Đó là thực tế của
kiếp người, vì ai sinh ra cũng tay trắng
và khi chết ai cũng trắng tay, thế mà
người ta vẫn tìm cách giành
giật và kèn cựa nhau đủ cách
– thậm chí có thể giết người
để mình hưởng lợi!
Có
thể ví giọt nước mắt là
“biểu tượng” của kiếp người,
bởi vì cuộc đời buồn nhiều
hơn vui, và luôn bị giằng co dữ
dội, như Thánh Phaolô đã từng
thú thật: “Sự
thiện tôi muốn thì tôi không
làm, nhưng sự ác tôi không muốn,
tôi lại cứ làm”
(Rm 7:19). Trong ca khúc “Một Cõi Đi
Về”, cố Ns Trịnh Công Sơn cũng
trăn trở: “Bao
nhiêu năm rồi còn mãi ra đi. Đi
đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt.
Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt.
Rọi suốt trăm năm một cõi đi
về”.
Và rồi ông lại tự nhủ: “Tôi
ơi, đừng tuyệt vọng!”.
Hoặc như cố Ns Y Vân đã than thở:
“Buồn
như ly rượu đầy, không có ai
cùng cạn. Buồn như ly rượu cạn,
không còn rượu để say”.
Còn thi sĩ Cao Bá Quát có cái
nhìn khác: “Ba
vạn sáu nghìn ngày là mấy?
Cảnh phù du trông thấy cũng nực
cười”.
Thi sĩ trào phúng có khác. Đúng
là người có máu khôi hài
có thể làm cho nỗi khổ bớt “cay
nghiệt” hơn.
Giữa
gọng kềm Khó Khăn và Khốn Khổ,
giống như trên đe dưới búa,
ông Gióp tiếp tục băn khoăn: “Vừa
nằm xuống, tôi đã nhủ thầm:
‘Khi nào trời sáng?’. Mới thức
dậy, tôi liền tự hỏi: ‘Bao giờ
chiều buông?’. Mãi tới lúc
hoàng hôn, tôi chìm trong mê sảng”
(G 7:4). Tại sao vậy? Ông cho biết rằng
“thịt tôi chai ra, dòi bọ lúc
nhúc, da tôi nứt nẻ, máu mủ đầm
đìa. Ngày đời tôi thấm
thoát hơn cả thoi đưa, và chấm
dứt, không một tia hy vọng” (G 7:5-6).
Dù thất vọng nhưng ông không
tuyệt vọng, mà vẫn không ngừng
tín thác và cầu nguyện: “Lạy
Đức Chúa, xin Ngài nhớ cho, cuộc
đời con chỉ là hơi thở, mắt
con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ”
(G 7:7). Thực sự tín thác vào Chúa
thì mới khả dĩ an tâm mà sống,
và khả dĩ cảm tạ Chúa trong mọi
sự:
Cảm
tạ Ngài đã để con sống
nghèo thê thảm
Nhờ
đó con mới cảm nhận đêm Chúa
giáng trần
Cảm
tạ Ngài đã để con bị hàm
oan
Nhờ
đó con mới cảm nhận lúc Ngài
bị xét xử
Cảm
tạ Ngài đã để con bị người
ta ghét bỏ
Nhờ
đó con mới thấy cảm thương
những người cô đơn
Cảm
tạ Ngài đã để con là người
bình thường
Nhờ
đó con mới cảm nhận thế nào
là mơ ước
Cảm
tạ Ngài đã để con bị thua
thiệt
Nhờ
đó con mới biết khao khát vươn
lên
Cảm
tạ Ngài đã để con không
hiểu thấu những điều cao siêu hơn
Nhờ
đó con mới không sa vào hố kiêu
ngạo
Cảm
tạ Ngài đã để con được
là người Công giáo
Nhờ
đó con mới cảm nhận mầu nhiệm
Lòng Chúa Xót Thương
Cảm
tạ Ngài đã để con tha phương
Nhờ
đó con mới có thể hòa đồng
với người xa, kẻ lạ
Cảm
tạ Ngài đã để con con mồ
côi cả Cha lẫn Mẹ
Nhờ
đó con mới biết trân quý tình
cảm gia đình
Cảm
tạ Ngài đã để con “lạc
loài” giữa cuộc đời loanh quanh
Nhờ
đó con mới cảm nhận thế nào
là bóc lột, áp bức
Đường
đời không như tấm thảm nhung, chính
Chúa Giêsu cũng đã phải trải
qua gian khổ mới tới vinh quang. Tất cả
đều là hồng ân (Rm 4:16), luôn
nhờ Lòng Chúa Xót Thương, nếu
Chúa chấp tội thì chắc chắn
chẳng có ai đứng vững (x. Tv 130:3).
Bởi vì “Thiên Chúa giàu lòng
thương xót và rất mực yêu
mến chúng ta” (Ep 2:4), thế nên “muôn
ngàn đời Chúa vẫn trọn tình
thương” (Tv 136). Đó là mầu
nhiệm của tình yêu thương, của
Lòng Chúa Thương Xót.
Đã
là mầu nhiệm thì chúng ta không
thể hiểu thấu, chỉ hiểu được
phần nào mà thôi. Do đó, “hãy
ca ngợi Chúa đi! Đàn hát mừng
Thiên Chúa chúng ta, thú vị dường
nào! Được tán tụng Người,
thoả tình biết mấy!” (Tv 147:1). Chính
Chúa “chữa trị bao cõi lòng
tan vỡ, và băng bó cho lành những
vết thương” (Tv 147:3). Chúa đã
“ấn định con số các vì
sao, và đặt tên cho từng ngôi
một” (Tv 147:4). Chúa còn “nâng
đỡ kẻ thấp hèn và hạ bọn
gian ác xuống đất đen” (Tv 147:6).
TIN
TƯỞNG TIẾP TẶNG THƯỞNG
Tin
tưởng là điều cần thiết
trong cuộc sống – tin người và tự
tin. Về tâm linh, niềm tin còn cần
thiết hơn, và đó chính là
đức tin – một trong ba nhân đức
đối thần. Với kinh nghiệm đầy
mình, Thánh Phaolô nói: “Đối
với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải
là lý do để tự hào, mà
đó là một sự cần thiết bắt
buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi
nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!”
(1 Cr 9:16). Vì “tự ý làm việc
ấy thì mới đáng Thiên Chúa
thưởng công, còn nếu không tự
ý thì đó là một nhiệm vụ
Thiên Chúa giao phó” (1 Cr 9:17).![](%5BCN%2005%20TN-B%5D%20N%E1%BB%96I%20NI%E1%BB%80M%20PH%C3%80M%20NH%C3%82N_html_e9a3072.jpg)
Đối
với Thánh Phaolô, phần thưởng là
“rao giảng Tin Mừng không công”,
và chân thành chia sẻ: “Tôi
đã trở nên yếu với những
người yếu, để chinh phục những
người yếu. Tôi đã trở nên
tất cả cho mọi người, để bằng
mọi cách cứu được một số
người. Vì Tin Mừng, tôi làm tất
cả những điều đó, để
cùng được thông chia phần phúc
của Tin Mừng”
(1 Cr 9:22-23). Như vậy mới thực sự hành
động vì sáng Danh Chúa, vì nếu
không khéo thì chỉ sáng danh chúng
ta mà thôi. Tôi tìm tiếng tăm
thì tôi thật tồi tệ!
Có
câu chuyện về Thánh Tôma Tiến sĩ
(Thomas Aquinas, 1225-1274) thế này: Có tiếng
nói từ Thập Giá: “Tôma,
con đã viết hay về Ta. Con muốn phần
thưởng gì cho công việc của con”.
Thánh Tôma trả lời: “Lạy
Chúa, con chỉ muốn chính Ngài”.
Và đó mới thực sự là phần
thưởng tuyệt vời nhất – cả
đời này và đời sau.
Thánh
sử Mác-cô cho biết rằng nhạc mẫu
của ông Simôn đang lên cơn sốt
và nằm trên giường. Chúa Giêsu
lại gần, “cầm tay bà mà đỡ
dậy”, thế là “cơn sốt dứt
ngay và bà phục vụ các ngài”
(Mc 1:31). Chiều đến, khi mặt trời đã
lặn, người ta đem mọi kẻ ốm
đau và những ai bị quỷ ám đến
cho Chúa Giêsu chữa. Ngài đã
chữa khỏi đủ thứ bệnh tật,
và trừ nhiều quỷ. Ngài không
cho quỷ nói, vì chúng biết Ngài
là ai.
Chuỗi
sinh – lão – bệnh – tử là
quy trình tự nhiên của đời người.
Thích Ca Mâu Ni là một hoàng tử
sống sung sướng trong hoàng cung, nhưng
ông đã “giác ngộ” sau khi
ra khỏi hoàng cung và nhìn thấy thực
tế của cuộc đời trần gian, thế
là ông có tứ diệu đế: Sinh
là khổ, lão là khổ, bệnh là
khổ, và tử là khổ. Thế đấy,
khổ là… khổ. Mà khổ thật!
Tin
Mừng cho biết rằng ngay từ sáng sớm,
lúc trời còn tối mịt, Chúa
Giêsu đã thức dậy, đi ra chỗ
tĩnh mịch và cầu nguyện ở đó
(Mc 1:35). Tĩnh lặng và cầu nguyện là
hai điều cần thiết, nhất là khi
thức dậy mỗi sáng, nếu thực sự
muốn giao tiếp mật thiết với Thiên
Chúa. Trước khi làm gì thì
phải đắn đo suy nghĩ. Tương tự,
trước khi hành động thì phải
cầu nguyện. Không thấy Thầy nên
các môn đệ kéo nhau đi tìm
Ngài, nhưng Ngài bảo: “Chúng
ta hãy đi nơi khác, đến các
làng xã chung quanh, để Thầy còn
rao giảng ở đó nữa, vì Thầy
ra đi cốt để làm việc đó”
(Mc 1:38). Và rồi Ngài đã đi
khắp miền Galilê, rao giảng trong các
hội đường, chữa bệnh và trừ
quỷ.
Mỗi
chúng ta – không trừ ai – cũng có
trách nhiệm rao giảng về Chúa mọi
nơi và mọi lúc, tùy theo hoàn
cảnh và cương vị của mình,
chính cách sống của chúng ta sẽ
“nói” nhiều và có tác
dụng hữu hiệu nhất. Nói ít mà
làm nhiều luôn tốt hơn nói nhiều
mà làm ít. Thiên Chúa cũng rất
muốn người ta phải thể hiện ngôn
hành song song: “Hãy
coi chừng các ngôn sứ giả, họ
đội lốt chiên mà đến với
anh em, nhưng bên trong họ là sói dữ
tham mồi. Cứ xem họ sinh hoa quả nào
thì biết họ là ai. Ở bụi gai
làm gì có nho mà hái? Trên
cây găng làm gì có vả mà
bẻ? Hễ cây tốt thì sinh quả tốt,
cây xấu thì sinh quả xấu”
(Mt 7:15-17; Lc 6:43-45). Sự phân tích và
dẫn chứng rất cụ thể!
Lạy
Thiên Chúa, xin giúp con không ngừng
cố gắng vẽ bức-tranh-cuộc-đời-con
bằng chính nét-cọ-số-phận của
chính con theo Thánh Ý Ngài và vì
Ngài, thực sự mong làm sáng danh
Ngài, và có thể sinh hoa kết trái
tốt. Con cầu xin nhân danh Đức Giêsu
Kitô, Đấng cứu độ nhân loại.
Amen.
TRẦM
THIÊN THU
(*)
Khúc Nhôi hoặc Khúc Nôi là
danh từ cổ, thường chỉ dùng trong
văn chương, nghĩa là đầu đuôi
của câu chuyện lòng, của nỗi
lòng, của tâm sự thầm kín.
Trong phần điệp khúc của bài
thánh ca “Dâng Hồn Xác”, cố
NS Hùng Lân có sử dụng từ này:
“Con
kính dâng Cha cùng bánh và rượu
nho, Hồn con đây với xác con đây,
Ðền vì bao tội lỗi xưa nay. Con dám
trông mong thành áng trầm thơm tho,
Bay tới trước dung nhan thánh Người,
cảm mến Cha lành tự tình khúc
nhôi”.
|