HỆ
LỤY TÔN GIÁO
[Bài
chủ đề báo ĐMHCG, số 377, tháng
01-2018]
Theo
ước tính, hiện nay trên thế giới
có khoảng 500.000 tôn giáo đang tồn
tại, Á Châu chiếm đa số. Trong số
hơn 7 tỉ người trên trái đất,
có 85% là những người có niềm
tin tôn giáo. Nhưng có nhiều ý
kiến cho rằng các cuộc xung đột
trong thế kỷ 21 này có thể là
sự
xung đột giữa các tôn giáo.
Đó là mối quan ngại, và thực
tế này đang manh nha!![](H%E1%BB%86%20L%E1%BB%A4Y%20T%C3%94N%20GI%C3%81O_html_m3c434ce3.jpg)
Trong
Tông Huấn “Giáo Hội tại Á
Châu” (Ecclesia in Asia – ĐGH Gioan Phaolô
II, 6-11-1999) cho biết: “Á
Châu là nơi khai sinh của Ðức Giêsu
và của Giáo Hội”.
Thánh GH Gioan Phaolô II đã nhận thấy
Á Châu là một chân trời mới
đầy hứa hẹn cho một “mùa
gặt các linh hồn mà Ngài thấy
đã chín mùi và phong phú”
cho sứ vụ của Giáo Hội trong Ngàn
Năm Thứ Ba (số 9). Tông Huấn này
xác định: “Ðức
Giêsu đã sinh ra, sống, chết và
phục sinh nơi Thánh địa, vùng đất
bé nhỏ này ở Tây Á đã
trở nên một vùng đất đầy
hứa hẹn và hy vọng cho tất cả
nhân loại”
(số 4). Á Châu chính là “chiếc
nôi của tôn giáo”. Thật kỳ
lạ!
CHIẾC
NÔI TÔN GIÁO
Dân
số Á châu hiện nay là hơn 3 tỉ
người, nghĩa là chiếm hơn nửa
dân số thế giới. Đó là một
lục địa mênh mông, đồng thời
cũng là quê hương của chính
Ðức Kitô, thế mà số người
Công giáo chỉ có vỏn vẹn hơn
132 triệu tín hữu, tỷ lệ là
3,95%.
Michael
Inzlicht, nhà thần kinh học thuộc ĐH
Toronto, Scarborough, người hướng dẫn
cuộc nghiên cứu về mối liên quan
giữa tôn giáo và não bộ, cho
biết: “Tôn
giáo đưa ra khung-biểu-diễn để
hiểu biết thế giới. Nó cho bạn
biết thời điểm hành động,
cách hành động, và những gì
cần làm trong mỗi tình huống. Nó
cung cấp chi tiết kế họach về cách
tương tác với thế giới”.
Tôn giáo – và có thể khác
hơn là hệ thống niềm tin – làm
vật đệm cho quyết định dự
đoán khác.
Cuối
năm 2011, để phân tích kinh nghiệm
về nỗ lực của tôn giáo đối
với hạnh phúc, người ta đã
sử dụng các dữ liệu từ 3 đợt
(2002-2003, 2004 và 2006) của tổ chức Nghiên
cứu Xã hội Âu châu (ESS –
European Social Survey) đối với 114.019 cá
nhân ở 24 quốc gia.
Các
dữ liệu này cung cấp thông tin về
đặc tính cá nhân như giới
tính, tuổi tác, thu nhập, sức khỏe
tổng quát theo quan điểm cá nhân,
tình trạng hôn nhân, hoạt động
chính, số con và trình độ học
vấn, và những phương diện khác,…
Dường như có mối liên quan tích
cực giữa mức độ tôn giáo ở
một người đối với hạnh phúc:
NHỮNG NGƯỜI CÀNG SÙNG ĐẠO
CÀNG HẠNH PHÚC.
Chủ
nghĩa vô thần muốn loại bỏ tôn
giáo, nhưng đó là sai lầm nghiêm
trọng. Thật vậy, chính họ cũng
vẫn thắp nhang và vái lạy thì
sao lại nói là mình vô thần?
Vừa mặc nhiên vừa mình nhiên, họ
đã tự mâu thuẫn!
Tôn
giáo liên quan thế giới vô hình,
liên quan các thần linh, đặc biệt
là Thiên Chúa – Đấng tạo
tác muôn sự muôn loài. Con người
vốn dĩ duy tâm, chắc chắn không
thể thiếu tôn giáo trong cuộc sống
thường nhật.
Riêng
tại Việt Nam, tôn giáo khá đa
dạng – gồm các nhánh Kitô giáo
như Công giáo Rôma, Tin Lành
(Lutheran, Cơ Đốc phục lâm,…); các
nhánh Phật giáo như Đại thừa,
Tiểu thừa, Hòa Hảo...; tôn giáo
nội sinh như Đạo Cao Đài, và
một số tôn giáo khác. Cho tới
nay, tín ngưỡng dân gian bản địa
vẫn có ảnh hưởng nhất định
trong cuộc sống của người dân Việt
Nam.
Có
những người Việt nhận mình là
những người không tôn giáo, mặc
dù thi thoảng họ vẫn đến các
địa điểm tôn giáo vào một
vài dịp trong năm. Theo tác giả Trần
Đình Hượu, người Việt được
cho là ít có tinh thần tôn giáo,
các tôn giáo thường được
tập trung về phương diện thờ cúng,
còn về giáo lý và tinh thần
lại ít được quan tâm. Theo số
liệu cuộc Tổng điều tra Dân số
và Nhà ở Việt Nam năm 2009, toàn
quốc có 15.651.467 người xác nhận
mình theo một tôn giáo nào đó.
Cùng với điều đó, tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên là
một loại hình sinh hoạt tôn giáo
phổ biến, được thực hành bởi
đa số dân chúng.
Từ
xưa, Việt Nam đã có các hình
thức thực hành tôn giáo đối
với các đối tượng tự nhiên.
Các hình trang trí trên trống đồng
Đông Sơn đã phản ánh các
nghi lễ tôn giáo thời ấy, mô tả
nhiều về hình ảnh một loài chim
– cụ thể là chim Lạc, khiến các
sử gia tin rằng chúng là đối
tượng được người Việt xưa
tin thờ. Ngoài ra, con Rồng cũng xuất
hiện nhiều trong các sản phẩm nghệ
thuật và mỹ thuật Việt Nam, phát
sinh từ việc thờ cúng Lạc Long Quân
– huyền thoại về một con người
được cho là cha đẻ của dân
tộc Việt Nam. Bên cạnh đó, các
đối tượng tự nhiên khác như
động vật, núi, sông, biển,...
cũng được người Việt tôn
làm vị thần bảo vệ và chúc
phúc cho con người. Tôn giáo tại
Việt Nam có mối liên hệ với nền
văn minh Trung Hoa và văn minh Ấn Độ,
nhưng người Việt còn kết hợp
yếu tố truyền thống đạo đức
của dân tộc mình vào đó
để hình thành loại tôn giáo
mang bản sắc riêng biệt.
Thời
quân chủ tại Việt Nam, Nho giáo được
chính quyền khuyến khích, được
xem là nền tảng của chế độ
khoa cử, nhiều văn miếu được
xây dựng trong cả nước. Các tôn
giáo hiện diện lâu đời tại
Việt Nam là Khổng giáo, Lão giáo
và Phật giáo (gọi chung là tam
giáo). Tuy nhiên, Phật giáo có vai
trò quan trọng trong các triều đại
như nhà Lý, nhà Trần và các
chúa Nguyễn.
Sau
năm 1954, khi người cộng sản cầm
quyền tại miền Bắc, vấn đề
tâm linh bị coi là đối tượng
đấu tranh về tư tưởng, thậm
chí là đấu tranh bằng ý thức
hệ, thế nên họ cố gắng bài
trừ mê tín dị đoan đến mức
mọi chuyện liên quan đến tâm linh
đều bị đả phá. Họ muốn
xóa bỏ tất cả, mặc dù tín
ngưỡng tôn giáo thuộc nhu cầu tâm
linh và là quyền cơ bản của con
người – tự do tín ngưỡng. Ở
miền Bắc, từ năm 1954 cho đến đầu
những năm 1980 hầu như không tồn
tại các hoạt động thực hành
tín ngưỡng nữa, nhưng tại miền
Trung và miền Nam vẫn duy trì hoạt
động đó. Việc ngắt quãng
trong một thời gian dài, từ 1954 đến
đầu thập niên 1980 khiến cho hệ
thống lễ hội bị phá vỡ. Từ
năm 1986 đến nay, gần 8.000 lễ hội
đã được phục hồi và
hình thành các lễ hội mới,
được quan tâm nhiều nhất là
lễ hội dân gian.
Ông
Nguyễn Quốc Tuấn, Viện trưởng Viện
nghiên cứu tôn giáo, nhận xét:
“Dường
như những chính sách về tôn giáo
nghiêm trọng và sai lầm trước
đây, và cả hiện nay nữa, đã
tạo ra một quá trình sa mạc hóa
về tâm linh ở Việt Nam, để giờ
đây tâm hồn của người Việt
đã biến thành một bãi hoang có
thể chấp nhận các loại bụi gai
xương rồng và không thể trồng
được loại cây có hoa thơm,
quả ngọt”.
Theo ông, đó là bài học về
việc đừng tạo ra những sa
mạc nhận thức
như đã từng làm, vì không
ai khác, chính các thế hệ người
Việt sau này sẽ phải gánh chịu
hậu quả.
Tại
Việt Nam có 6 tôn giáo lớn là
Phật giáo, Công giáo, Cao Đài,
Hòa Hảo, Tin Lành, và Hồi giáo.
Trong số đó, Phật giáo có số
tín đồ đông đảo nhất.
Theo thống kê dân số năm 2009, số
tín đồ Phật giáo là 6.802.318
người. Còn theo số liệu thống kê
của Giáo hội Phật giáo Việt
Nam, cả nước có gần 45 triệu tín
đồ đã quy y tam bảo.
Công
giáo Rôma tới Việt Nam vào đầu
thế kỷ 16, tại Nam Định (thời Nhà
Lê trung hưng), bởi những nhà truyền
giáo Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha,
sau đó là người Pháp, trước
cả khi Việt Nam là thuộc địa của
Pháp. Về sau, chính quyền Pháp không
khuyến khích người dân theo tôn
giáo nào, nhưng họ bảo đảm
quyền tự do tôn giáo lần đầu
tiên trên đất nước Việt Nam,
nhất là Bắc Kỳ và Nam Kỳ –
nơi chịu sự bảo hộ của Pháp.
Nhờ vậy Công giáo cũng như những
tôn giáo khác đã thoát khỏi
thời kỳ bách hại lớn nhất dưới
các triều đại phong kiến kể từ
thế kỷ 16. Công giáo lan truyền trong
dân tại các tỉnh ven biển Thái
Bình, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa,
sau đó lan tới vùng châu thổ
sông Hồng và các vùng đô
thị. Theo thống kê năm 2009, Việt Nam có
khoảng 5.677.086 tín hữu Công giáo,
GP Xuân Lộc (tỉnh Đồng Nai) có
nhiều tín hữu Công giáo nhất,
với khoảng 800.000 tín hữu, và có
khoảng 6.000 nhà thờ tại Việt Nam.
Công giáo được mệnh danh là
“đạo yêu thương”, bởi vì
“Thiên Chúa là tình yêu”
(1 Ga 4:8 & 16), và luật Chúa tóm gọn
trong hai điều: Mến Chúa và yêu
người.
Cao
Đài (còn gọi là Đại Đạo
Tam Kỳ Phổ Độ) là một tôn
giáo do Ngô Văn Chiêu, Cao Quỳnh Cư
và Phạm Công Tắc thành lập năm
1926, có trung tâm là Tòa Thánh Tây
Ninh, thờ cúng Đức Chí Tôn Ngọc
Hoàng Thượng Đế. Các tín
đồ Cao Đài thi hành những giáo
điều như không sát sanh, sống
lương thiện, hòa đồng, làm
lành, lánh dữ, giúp đỡ xung
quanh, cầu nguyện, thờ cúng tổ tiên
và thực hành tình yêu thương
vạn loại qua việc ăn chay. Mục tiêu
tối thiểu của họ là đem hạnh
phúc đến cho mọi người, đưa
mọi người về với Thượng Đế
nơi Thiên Giới, và mục tiêu tối
thượng là đưa vạn loại thoát
khỏi vòng luân hồi. Theo số liệu
năm 2011, có 2,4 triệu tín đồ Cao
Đài trên cả nước, đông
nhất tại Tây Ninh, và có khoảng
30.000 tín đồ sống tại Bắc Mỹ,
Âu Châu và Úc Châu.
Hòa
Hảo (Phật giáo Hòa Hảo) là một
tôn giáo Việt Nam gắn chặt với
truyền thống Phật giáo, do Huỳnh Phú
Sổ (gọi là Đức Huỳnh giáo
chủ) thành lập năm 1939 tại làng
Hòa Hảo, quận Tân Châu (nay là
thị trấn Phú Mỹ, huyện Phú Tân,
tỉnh An Giang). Đạo Hoà Hảo phát
triển ở miền Tây Nam Bộ, kêu gọi
mọi người sống hòa hợp, đánh
giá cao triết lý “Phật tại
tâm”, khuyến khích nghi lễ thờ
cúng đơn giản (chỉ có hoa và
nước sạch) và loại bỏ mê
tín dị đoan. Những buổi lễ được
tổ chức rất đơn giản và
khiêm tốn, không có ăn uống, hội
hè. Lễ lộc, cưới hỏi hay ma chay
không cầu kỳ như thường thấy
ở những tôn giáo khác. Đạo
không có tu sĩ, không có tổ chức
giáo hội mà chỉ có một số
chức sắc lo việc đạo và việc
đời. Theo thống kê năm 2009, có
khoảng 1.433.252 tín đồ Phật giáo
Hòa Hảo, chủ yếu tập trung ở
miền Tây Nam Bộ (đặc biệt là
An Giang, nơi có nhiều tín đồ
nhất – gần 1 triệu).
Tin
Lành được truyền vào Việt
Nam năm 1911. Đầu tiên, tôn giáo
này chỉ được phép hoạt động
tại các vùng do Pháp quản lý,
các vùng khác bị cấm. Đến
năm 1920, Tin Lành mới được phép
hoạt động trên khắp Việt Nam. Theo
thống kê năm 2009, Tin Lành là tôn
giáo chính của nhiều dân tộc
thiểu số, và số tín đồ chủ
yếu tập trung ở khu vực Tây Nguyên
và Tây Bắc, nơi có nhiều tín
đồ Tin Lành nhất là Đăk Lăk.
Hầu
hết tín đồ Hồi giáo và
Hindu giáo tại Việt Nam là người
Chăm. Người ta cho rằng Hồi giáo
đã được truyền vào Việt
Nam đầu tiên là khoảng thế kỷ
10 và 11, trong cộng đồng người
Chăm. Theo thống kê năm 2009, tại Việt
Nam có khoảng 75.268 tín đồ Hồi
giáo, chủ yếu ở Bình Thuận,
Ninh Thuận, An Giang, Tây Ninh, Đồng Nai, và
Saigon, đông nhất là tại Ninh Thuận
(hơn 25.000 tín đồ). Có hai phái
Hồi giáo của người Chăm: người
Chăm ở Châu Đốc, Saigon, Tây Ninh
và Đồng Nai theo Hồi giáo Chính
thống, còn người Chăm ở Bình
Thuận và Ninh Thuận theo phái Chăm Bà
Ni.
Một
tôn giáo chính khác của cộng
đồng người Chăm là đạo
Bà La Môn (hơn 56.000 tín đồ) chủ
yếu tập trung ở Ninh Thuận (hơn 40.000
tín đồ).
Ngoài
6 tôn giáo lớn vừa đề cập,
Việt Nam còn có nhiều tôn giáo
nhỏ khác được chính quyền
công nhận như: Tứ Ân Hiếu Nghĩa
(hơn 41.000 tín đồ), Tịnh độ
Cư sĩ Phật hội Việt Nam (hơn 11.000
tín đồ), Bửu Sơn Kỳ Hương
(hơn 10.000 tín đồ), Baha'I (khoảng
8.000 tín đồ), Minh Lý Đạo và
Minh Sư Đạo.
Đồng
thời còn có vài tin ngưỡng và
tôn giáo không chính thức như
tín ngưỡng bản địa ở Tây
Nguyên và miền núi phía Bắc,
Đạo Ông Trần tại Đảo Long Sơn
(Bà Rịa – Vũng Tàu); các tín
ngưỡng phụ phổ biến như Đạo
Mẫu, Đạo giáo, Nho giáo, thờ
Thành hoàng, tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên; Chính Thống giáo
tại Việt Nam có đại diện là
giáo xứ Đức Mẹ Kazan (thuộc Giáo
hội Chính thống Nga) ở Vũng Tàu,
nơi có vài trăm chuyên gia người
Nga của Công ty Liên doanh Vietsovpetro. Các
đại diện của Bộ phận liên
lạc các giáo xứ ở ngoại quốc
của tòa thượng phụ Moskva thường
xuyên thăm giáo xứ này để
tổ chức các thánh lễ theo lịch
phụng vụ dịp Lễ Phục Sinh và các
thánh lễ tại nơi khác.
HỆ
LỤY TÔN GIÁO
Thống
kê cho thấy rằng số người Việt
thực hiện việc thờ cúng tổ tiên
chiếm tỷ lệ trung bình là 98% dân
số. Điều này chứng tỏ người
Việt duy tâm lắm đấy, nghĩa là
tôn giáo rất quan trọng trong đời
sống của họ!
Vì
nhu cầu tâm linh mà người ta tìm
đến tôn giáo, vì có niềm
tin tôn giáo mà nhiều người bị
bách hại, và họ tìm đường
thoát thân bằng cách di tản để
được sống tự do – đặc
biệt là tự do tôn giáo. Nhiều
nơi trên thế giới đã và
đang có những cuộc di tản, tạo
nên tình trạng di dân và người
tỵ nạn. Riêng tại Việt Nam đã
có cuộc di cư năm 1954 và 1975, đó
là lịch sử minh nhiên, đồng thời
cũng có hệ lụy tất yếu.
Hai
mươi năm là một thế hệ. Hai
mươi năm không dài mà Việt
Nam phải mang hai nỗi buồn rười rượi.
Đau lòng lắm, quê hương ơi!
Với
tâm tình đó, cố nhạc
sĩ Phạm Duy đã viết ca khúc “Năm
Bốn, Bảy Lăm” (1954-1975) nói về
tình trạng tỵ nạn của nhiều
người Việt: “Một
ngày năm bốn cha bỏ quê xa, chốn
đã chôn nhau cắt rốn bao nhiêu
đời. Một ngày năm bốn cha bỏ
phương trời, một miền Bắc tối
tăm mưa phùn rơi... Một ngày bảy
lăm con bỏ nước ra đi, hai mươi
năm là hai lần ta biệt xứ. Giờ
cha lưu đày ở ngay trên đất
ta, và giờ con lưu đày ở đây
trên xứ lạ!... Một ngày năm bốn
xa mộ ông cha, với lũy tre xanh khóm
chuối bên sau nhà. Một ngày năm
bốn cha phải chia lìa, cùng mảnh đất
nóc gia cha làm ra... Một ngày bảy
lăm con bỏ hết giang sơn, hai mươi
năm tình yêu người yêu cuộc
sống. Giờ nơi nước mình niềm
đau thay nỗi vui, Saigon đã chết rồi
phải mang tên xác người...”.
Lời ca da diết niềm đau như mũi dao
cứ xoáy sâu vào lòng vậy. Buồn
và đau lắm!
Nói
chung, dân tỵ nạn là những người
muốn tránh khổ, thoát khổ, tức
là họ quyết đi tìm tự do, bình
an và hạnh phúc ở một nơi khác.
Nơi nào có tự do, bình an và
hạnh phúc thì họ tìm đến
bằng mọi giá, và nơi đó
trở thành quê hương của họ.
Tuy nhiên, có những người đã
phải trả giá rất đắt vì họ
gặp đủ thứ nguy hiểm, thậm chí
phải mất mạng trong cuộc chạy trốn
đó. Quả thật, tình trạng tỵ
nạn là cảnh đáng sợ, vì
kiếp tỵ nạn gian khổ lắm thôi!
Về
phương diện tâm linh, chúng ta không
thể dùng danh từ tỵ nạn, nhưng
chúng ta cũng chẳng khác gì dân
tỵ nạn – theo nghĩa phiến diện nào
đó, bởi vì chúng ta đang trên
đường lữ hành trần gian đầy
đau khổ, với hy vọng sẽ thoát
cảnh “khổ não trần ai” để
về tới Bến Hạnh Phúc đích
thực là Nước Trời, Quê Hương
vĩnh cửu. Xét về ý nghĩa đó,
chúng ta có thể coi mình cũng đang
là “dân tỵ nạn”. Khổ hết
sức! Khổ vô cùng! Khổ trên từng
cây số! Khổ tận cùng bảng số!
Thế nên chúng ta luôn thao thức cầu
xin: “Lạy
Chúa, xin cứu thoát! Lạy Chúa Giêsu,
xin Ngài ngự đến!”
(Kh 22:20b).
Đúng
như vậy, nguy hiểm lúc nào cũng
cận kề trên đường lữ hành
trần gian, sơ sảy một chút là
“chết” ngay, vì thế mà Thánh
Phêrô đã cảnh báo: “Anh
em hãy sống tiết độ và tỉnh
thức, vì ma quỷ, thù địch của
anh em, như sư tử gầm thét, rảo
quanh tìm mồi cắn xé” (1
Pr 5:8).
Trong
Tân Ước, chúng ta không thấy đề
cập vấn đề tỵ nạn, nhưng Cựu
Ước có nhắc tới việc tỵ nạn
hai lần.
Sách
Sử Biên Niên đề cập nơi sinh
sống của con cháu A-ha-ron: “Đây
là nơi cư trú của họ, theo ranh
giới các trại dành cho họ: Nên
người ta cho họ vùng Khép-rôn
trong đất Giu-đa, cùng với các
đồng cỏ chung quanh. Đồng ruộng của
thành ấy và các thôn làng thì
người ta cho ông Ca-lếp con ông
Giơ-phun-ne. Nhưng người ta lại cho con
cháu ông A-ha-ron các
thành tỵ nạn
là Khép-rôn và Líp-na với các
đồng cỏ, Giát-tia, Ét-tơ-mô-a
với các đồng cỏ, Khi-lết với
các đồng cỏ, Đơ-via với các
đồng cỏ, A-san với các đồng
cỏ, Bết Se-mét với các đồng
cỏ. Còn chi tộc Ben-gia-min thì người
ta cho họ: Ghe-va với các đồng cỏ,
A-le-mét với các đồng cỏ,
A-na-tốt với các đồng cỏ. Tất
cả các thành của họ là mười
ba, tính theo số các thị tộc của
họ” (1
Sbn 6:39-45).
Sách
Isaia nói tới vấn đề tỵ nạn
trong lời sấm hạch tội Mô-áp:
“Lòng
tôi kêu gào bênh vực Mô-áp;
những người
dân tỵ nạn
đã đến tận Xô-a và Éc-lát
Sơ-li-si-gia. Thật vậy, tại dốc Lu-khít,
họ vừa trèo vừa khóc; quả thế,
trên đường Khô-rô-na-gim, họ
thốt lên những tiếng kêu than thảm
bại” (Is
15:5).
Thế
giới có nhiều trại tỵ nạn, nhiều
dạng tỵ nạn, nhiều mức độ tỵ
nạn, nhưng luôn có một mẫu số
chung là KHỔ. Đành rằng “ngày
nào có cái khổ của ngày đó”
(Mt 6:34), nhưng cái khổ của kiếp tỵ
nạn thì chỉ hơn kiếp tù tội
là có tự do. Chẳng nơi nào có
thể để chúng ta an tâm nếu “chẳng
may” là dân tỵ nạn.
Chỉ
có một “trại tỵ nạn” đầy
đủ “tiện nghi” nhất, thậm
chí còn sướng hơn sống tại
nhà mình, đó là Thánh Tâm
Chúa Giêsu. Thật vậy, chính Ngài
đã mời gọi mọi người, nhất
là những người đau khổ: “Hỡi
những ai đang vất vả mang gánh nặng
nề, hãy đến cùng Tôi, Tôi
sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng”
(Mt
11:28). Chúa Giêsu là nơi để
chúng ta có thể “tỵ nạn”
an toàn nhất, vì chúng ta không chỉ
được sống mà còn sống dồi
dào (x. Ga 10:10).
Ước
gì mỗi chúng ta biết lánh nạn
trần gian để an tâm tỵ nạn nơi
Thánh Tâm Chúa Giêsu, nơi đó
có Nguồn Nước và Máu biến
đổi chúng ta, để chúng ta có
thể nên thánh theo Tôn Ý của
Chúa Giêsu: “Hãy
hoàn thiện như Chúa Cha trên trời”
(Mt
5:48). Hãy mau ngụp lặn trong Đại Dương
Lòng Chúa Thương Xót, đừng
chần chừ nữa, vì thời gian sắp
hết, nghĩa là giờ thương xót
của Thiên Chúa gần hết rồi!
Khi
tỵ nạn trần gian, chắc hẳn chúng
ta không thể thiếu Người Mẹ, vì
có Mẹ là có bình an – bình
an ngay trong cảnh khổ. Trong Kinh Cầu Đức
Bà, chúng ta tha thiết cầu xin: “NỮ
VƯƠNG BAN SỰ BÌNH AN – Cầu Cho
Chúng Con!”.
Đức Mẹ thông ban những ơn cần
thiết trong cuộc sống trần gian, bởi vì
Mẹ là Thánh Mẫu của Thiên Chúa
và cũng là Nữ Vương Hòa
Bình.![](H%E1%BB%86%20L%E1%BB%A4Y%20T%C3%94N%20GI%C3%81O_html_m1f60de25.jpg)
Trong
đời thường, ngày khởi đầu
công việc luôn được người
ta coi trọng. Ngày khởi đầu càng
quan trọng hơn khi ngày đó là
Ngày Đầu Năm. Do đó, ngày 1
tháng 1 là ngày rất đặc biệt
đối với thế giới, cả đạo
và đời, vì đó là ngày
khởi đầu năm mới. Với người
Âu Tây, đó là ngày Tết;
với quốc tế, đó là ngày
Hòa bình Thế giới; với người
Công giáo, đó là ngày lễ
Mẹ Thiên Chúa. Chúng ta mới vừa
mừng lễ Giáng sinh để tôn vinh
Con Thiên Chúa, liền sau đó lại
tiếp tục mừng lễ Mẹ Thiên Chúa
để tôn vinh Mẹ Thiên Chúa. Giáo
hội tạo một nối kết tuyệt vời
để đề cao Tình Mẫu Tử!
Không
biết Thiên Chúa có “tiền định”
hay không mà các ngôn ngữ đều
mở miệng gọi Mẹ bằng âm bật
mở đầu là mẫu tự M. Chẳng
hạn cách gọi người sinh ra mình
là Mẹ hoặc Má (tiếng Việt),
Mother (Mom, Mum – tiếng Anh), Mère (Maman –
tiếng Pháp), Mutter (Mumie – tiếng Đức),
Madre (Mamá – tiếng Tây Ban Nha), Madre
(Mamma – tiếng Ý), Moeder (Mummie – tiếng
Hà Lan),… Nhưng khi gọi Cha thì các
nước không dùng chung âm mở đầu,
mỗi nước mỗi khác. Phải chăng
đây là “đặc cách” mà
Thiên Chúa đã dành cho Đức
Mẹ, Mẹ của những người Mẹ,
và tất cả những phụ nữ làm
Mẹ?
Nói
đến mẹ thì luôn liên quan con.
Tình Mẫu Tử có gì đó rất
kỳ diệu, hầu như chúng ta không
thể hiểu hết. Dù người con tật
nguyền, không đẹp, thậm chí là
hư hỏng, phản bội, nhưng vì “nước
mắt luôn chảy xuôi” nên người
Mẹ vẫn sẵn sàng tha thứ và vẫn
yêu thương hết lòng. Người
bàng quan có thể trách người Mẹ
là nhu nhược, là sợ sệt, nhưng
ai đã làm Mẹ mới khả dĩ
hiểu thấu. Thế mới là Tình
MẫuTử đích thực – trong đó
Tình Phụ Tử đích thực cũng
được “hiểu ngầm”. Không
thể chỉ kính trọng Tình Mẹ mà
“coi nhẹ” Tình Cha, vì người
Mẹ khởi đầu cho cuộc sống, tình
yêu và hạnh phúc; người Cha khởi
đầu cho ý chí, niềm tin và sức
mạnh.
Hình
như chữ T luôn có gì đó
khá đặc biệt, tạo nên chuỗi
liên kết kỳ diệu trong cuộc sống
của mỗi chúng ta, nhất là các
Kitô hữu: Tôn giáo – Tâm linh –
Tình yêu – Thanh bình (hòa bình,
bình an, an bình).
Cùng
với cố NS Hải Linh (1920-1988), chúng ta
cùng xưng tụng Đức Mẹ qua bài
Thánh ca “Nữ Vương Hòa Bình”
(1959), ca từ nói lên tâm tình thảo
kính của người Việt được
hòa quyện vào giai điệu du dương:
“Kính
mừng Nữ vương, Nữ vương Hòa
bình, Nữ vương Hòa bình. Đây
bao tâm hồn thao thức, dân con đất
Việt nao nức, cất tiếng ca mừng vui:
Kính chào Nữ vương Hòa
bình. Tung hô Mẹ Maria! Tung hô Mẹ
đầy ơn phúc! Mẹ là sáng
khắp đất nước bao la! Tung hô
Mẹ Maria! Tung hô Mẹ đầy ơn phúc!
Đem nguồn sống an vui chan hòa”.
Lạy
Thiên Chúa giàu lòng thương xót,
xin giải thoát chúng con khỏi cảnh
đời lầm than, xin ban bình an cho chúng
con, xin cho chúng con được hưởng
nền hòa bình và tự do đích
thực. Xin Thánh Mẫu Thiên Chúa nguyện
giúp cầu thay cho chúng con, đặc biệt
là dân con Nước Việt. Chúng con
cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng
cứu độ nhân loại. Amen.
TRẦM
THIÊN THU
|