Năm
Phụng vụ bắt đầu với Mùa Vọng, chuẩn bị chúng ta mừng đại lễ Giáng
Sinh, một lễ tưng bừng nhất trong năm, xét về mặt xã hội, không những
trong đạo mà cả "ngoài đời" nữa. Tôi luôn luôn biết ơn và cảm phục Giáo
Hội, người mẹ hiền của chúng ta. Giáo Hội thật khôn ngoan, biết rõ lòng
người. Con người có nhu cầu vui chơi và mừng lễ. Trong đời sống xã hội
có biết bao nhiêu là ngày lễ, biết bao nhiêu mùa lễ và cao điểm.
Và ai
cũng biết: các ngày lễ, các mùa lễ như thế không chỉ có mục đích giải
trí, vui chơi mà thôi. Trong Năm Phụng vụ, Giáo Hội cũng cho ta sống
nhiều mùa đại lễ, nhiều cao điểm Phụng vụ, để bồi dưỡng tinh thần chúng
ta, giúp ta sống bởi sự sống của Thiên Chúa cách dồi dào, phong phú hơn.
Đức Kitô tự ví mình như cây nho và chúng ta là cành. Cây nho này lại
phải nẩy sinh thêm những cành mới, lại phải trở nên xanh tươi và sinh
hoa kết quả qua các mùa Phụg vụ: Mùa Vọng và Giáng Sinh, Mùa Chay và
Phục Sinh, rồi đến Mùa Thường Niên.
Năm Phụng
vụ nhắc lại lịch sử Dân Chúa trong Cựu ước hoặc làm sống lại những biến
cố lớn trong cuộc đời Chúa Giêsu, hoặc gợi lại gương sáng của Đức Mẹ và
các thánh, nhưng đó không phải là do lòng sùng bái quá khứ, thích thú
những chuyện đã qua rồi. Điều Phụng vụ nhắm tới không phải là quá khứ
nhưng là hiện tại, là đời sống ân sủng của chúng ta hôm nay. Bốn mùa
xuân, hạ, thu, đông nối tiếp nhau không phải chỉ là lặp lại y nguyên một
vòng tròn, song là điều kiện cho con người trưởng thành và sung mãn.
Cũng vậy, người Kitô hữu phải chờ đợi nơi năm Phụng Vụ sự sống của Chúa
ngày càng dồi dào hơn trong mình, sự sống mà họ đã nhận lãnh như một mầm
mống trong Bí tích Thánh Tẩy.
Các mùa
Phụng vụ đều nhắm cùng một mục đích như nhau nhưng theo những cách thức
khác nhau, cũng như tứ thời bát tiết đều là những mùa của trời đất xoay
vần song không giống nhau. Vậy Mùa Vọng có gì đặc trưng? Chúng ta cử
hành gì trong mùa này?
Một chút lịch sử
Cho đến
thế kỷ thứ IV, Giáo hội Tây phương mừng một đại lễ duy nhất là lễ Phục
Sinh. Tất nhiên là có một số lễ khác song tất cả đều quy về Phục Sinh và
không bao giờ long trọng bằng Phục Sinh. Đến thế kỷ thứ IV, Tây phương
mới bắt đầu mừng lễ Chúa Giáng Sinh vào ngày 25-12. Theo thời tiết, thì
đó là kỳ đông chí, lúc mà đêm ngắn lại và ngày bắt đầu dài thêm. Vào dịp
này, người ngoại giáo cử hành lễ mừng Ánh sáng. Giáo Hội đã đặt lễ
Giáng Sinh vào đúng ngày đó để công bố rằng chính Đức Giêsu Kitô mới
thực là Ánh sáng, là Mặt trời soi sáng thế gian.
Nhưng lúc
đầu Giáng Sinh cũng chỉ là lễ thường thôi. Mãi đến thế kỷ thứ VI mới
trở thành một đại lễ, và cũng kể từ đó, người ta mới tổ chức một thời
gian chuẩn bị tương đương với Mùa Chay trước Phục sinh, và được gọi là
mùa Adventô tức là Mùa Vọng như ta quen gọi ngày nay. Năm Phụng Vụ được
tổ chức thành 2 chu kỳ xoay quanh 2 trung tâm là Phục sinh và Giáng
sinh. Chu kỳ Giáng Sinh vươn lên từ đêm tối đến ánh sáng (như mùa đông
qua mùa xuân) còn Phục Sinh thì đầm đìa trong ánh sáng chan hoà.
Tinh thần và Ý nghĩa của Mùa Vọng
Vọng là
trông mong. Trong thời gian Mùa Vọng, Giáo Hội muốn chúng ta sống mãnh
liệt hơn tâm tình khát mong Chúa đến. Nhưng Chúa đến lúc nào? Ta biết
Chúa đã đến cách nay 2000 năm, trong thận phận làm người. Mùa Vọng có
mục đích đầu tiên là chuẩn bị tâm hồn ta mừng lễ Giáng sinh, tức là kỷ
niệm biến cố Ngôi Hai xuống thế làm người tại Bêlem xưa. Nhưng ta cũng
tuyên xưng Người sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét thế gian và
hoàn thành công cuộc cứu độ không những đối với loài người mà còn đối
vơi toàn thể vũ trụ nữa.
Mùa Vọng
mời gọi chúng ta sống tích cực hướng về ngày đó mà giáo lý quen gọi là
ngày cánh chung. Giữa hai lần Chúa đến ấy, còn có thể nói tới một lần
nưã, đó là cuộc Chúa ngự đến cách nhiệm mầu trong tâm hồn chúng ta bằng
ân sủng, như lời Kinh Thánh: “Ai yêu mến Ta, thì Cha Ta sẽ yêu mến người
ấy và chúng ta sẽ cư ngụ trong người ấy”. Như vậy, Mùa Vọng cử hành ba
cuộc ngự đến. Cần nhớ tới cả ba nếu chúng ta muốn hiểu rõ nội dung của
các bản văn Kinh Thánh và Phụng vụ của mùa này và có được những tâm tình
thích hợp. Hồng y Newman đã viết: “Trong linh đạo Mùa Vọng, Đức Kitô
xuất hiện như một người đã có mặt đó rồi, và đồng thời vẫn không ngừng
được chờ mong. Và Kitô hữu sống linh đạo này như một người chờ đợi Đức
Kitô”.
Có thể
nói chúng ta sống càng về phía trưóc. Mùa Vọng đến nhắc nhở chúng ta
rằng cuộc đời ta còn dang dở và quê hương thật của ta ở trên trời. Mùa
Vọng mời gọi ta nhổ trại lên đường tiến về Ngày của Chúa, ngày Chúa đến
làm cho cuộc đời chúng ta cũng như toàn thể lịch sử nên sung mãn. Chính
ngày đó đem lại cho cuộc sống hiện tại một hướng đi và một ý nghĩa cao
cả. Vì thế nỗi chờ mong của ta cũng là một niềm hy vọng. Chúng ta chờ
đợi với sự tin tưởng và nôn nóng như người vợ hiền chờ đợi người chồng
mà bà đã biết, mà bà yêu mến và được yêu mến. “Đức Kitô về trời mang
theo trái tim của Hội thánh. Tất cả đời sống của Hội thánh chỉ là một
hành vi khao khát, hy vọng, cầu nguyện và đợi chờ” (Jean Daniélou). Lời
cầu nguyện kết thúc toàn bộ Kinh Thánh mà thánh Gioan Tông đồ đã đặt vào
miệng Giáo Hội đang bị bách hại là: Lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến!
Ba thái độ sống cụ thể
Theo tinh thần Mùa Vọng, sống hướng về ngày Chúa đến có thể được diễn tả trong ba thái độ cụ thể.
Trước
tiên là tương đối hoá hiện tại. Mọi giá trị ở đời này như của cải, danh
vọng, tình yêu, gia đình, khoa học, kỹ thuật, văn hoá… là những điều tốt
lành mà chúng ta phải ra sức thực hiện theo thánh ý của Chúa trong hoàn
cảnh sống cụ thể của mình, nhưng đó chưa phải là những cái tuyệt đối
đáng cho ta coi là mục đích phải gắn bó và đeo đuổi với bất cứ giá nào.
Trái lại, chúng chỉ tìm được trọn vẹn giá trị khi đối chiếu với cùng
đích tối hậu, đích thực của đời ta.
Thái độ
sống này làm cho ta nên khôn ngoan, sáng suốt, chừng mực và tự do. Sống
hướng về ngày Chúa đến còn đòi hỏi nơi ta một thái độ thứ hai là phải
cương quyết chống lại tội lỗi và sự ác nơi mình và chung quanh mình, nơi
gia đình và trong xã hội. Đó là dọn đường cho Chúa ngự đến, như chúng
ta thường hát trong Mùa Vọng theo lời Kinh Thánh: “Quanh co uốn cho
ngay, Gồ ghề san cho phẳng, Hố sâu lấp cho đầy, Nơi cao phải bạt xuống”.
Sau hết,
sống hướng về ngày Chúa đến buộc ta phải tỉnh thức và luôn luôn sẵn sàng
như người tôi trung: hết lòng với nhiệm vụ được trao phó, tận dụng mọi
khả năng của mình để hoàn thành mọi việc theo ý chủ nhà hiện đang vắng
mặt và mau mắn mở cửa đón chủ về bất cứ lúc nào.
Cố Lm. Guy Marie Nguyễn Hồng Giáo, OFM