Cửa trời hẹp lắm ai ơi!
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn
Phượng, OP)
Chúng ta bắt đầu một chu kỳ
phụng vụ mới, một năm phụng vụ
mới, mùa đầu tiên của năm phụng vụ là
Mùa Vọng. Mùa Vọng là mùa của hy vọng nở hoa,
nếu chúng ta hiểu được nỗi chờ
đợi của một em bé mong mẹ đi chợ
về, nỗi chờ mong gặp lại một
người thân yêu xa vắng, nỗi khát vọng của
một người mẹ “bồng con mẹ ải chờ
mong, cho lòng chinh phụ hóa thành vọng phu”, nỗi mong
chờ của một người cha già Tin Mừng chờ
đón con về… thì chúng ta sẽ hiểu được
thế nào là Mùa Vọng.
Xưa kia, Mùa Vọng được gọi
là mùa Át, “Át” là âm đầu tiên gọi tắt của
tiếng “Adventus”, một tiếng La Tinh, có nghĩa là
đến hay sắp đến. Với phong trào Việt
hóa, có một thời lại được gọi là Mùa
Áp, “Áp” có nghĩa là gần kề hay kề bên, cả hai
cách gọi trên tuy cũng nói lên phần nào ý nghĩa của
mùa này nhưng chưa được rõ ràng. Ngày nay với
hai tiếng “Mùa Vọng” bao hàm ý nghĩa rõ hơn: mùa hy
vọng, mùa trông đợi, mùa chờ mong. Hy
vọng, trông đợi, chờ mong cái gì? Chờ mong Chúa Giêsu giáng sinh. Vì
thế, Mùa Vọng đầu tiên có nghĩa là một
thời gian chuẩn bị đạo đức
để xứng đáng mừng lễ Giáng Sinh.
Nhưng đến thế kỷ thứ VII, Mùa Vọng
lại thêm một ý nghĩa nữa: trông đợi,
chờ mong Chúa quang lâm, Chúa tái giáng để phán xét nhân
loại.
Như vậy, Mùa Vọng là mùa nhắc
lại thời gian nhân loại chờ đợi
Đấng Cứu Thế đến cứu chuộc, và
cũng nói lên nỗi chờ đợi của Giáo hội
hôm nay: đợi Đức Ki-tô đến lần thứ
hai khi lịch sử kết thúc để phán xét nhân loại.
Ngoài ra, với mỗi người, Mùa Vọng cũng
nhắc nhở chúng ta hãy chuẩn bị sẵn sàng chờ
đón Chúa trong mỗi ngày của đời sống và đặc
biệt trong ngày chết khi Chúa đến gọi chúng ta
về với Ngài. Vì thế, lời Chúa của Chúa nhật
thứ nhất Mùa Vọng nhắc nhở chúng ta ba
điều: thứ nhất về ngày Chúa quang lâm, thứ
hai về ngày chúng ta ra khỏi trần gian, thứ ba chúng ta
phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng.
Về ngày Chúa quang lâm, tức là ngày Chúa tái
giáng, Chúa trở lại trần gian, ngày phán xét chung. Ngày ấy không ai biết khi nào xảy
ra, chỉ một mình Thiên Chúa biết mà thôi, một mình Ngài
quyết định khi nào Ngài trở lại, và chỉ khi
nào ngày ấy xảy ra thì người ta mới biết
chứ không ai biết trước. Kinh Thánh ví ngày đó
như kẻ trộm ban đêm, có bao giờ kẻ trộm
lại báo trước ngày giờ nó đến ăn trộm đâu. Cũng
vậy, ngày Chúa đến rất bất ngờ, hoàn toàn
bất ngờ. Có thể hôm nay người ta cho
rằng ngày Chúa quang lâm là thứ “cọp giấy” tức là
không có hay nếu có cũng còn lâu lắm. Xin những ai có ý
nghĩ như vậy thì hãy nhớ: lời Kinh Thánh đúng
từng dấu phẩy, Kinh Thánh ứng nghiệm từng
điều từng nét. Hơn nữa, ngày Chúa quang lâm là
một chân lý chúng ta
tuyên xưng trong kinh Tin Kính và mỗi khi dự
thánh lễ: “Chúng con loan truyền việc Chúa chịu
chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho
tới khi Chúa lại đến”.
Đàng khác, Tin Mừng hôm nay
mặc dầu đề cập tới ngày tận thế
nhưng cũng nhắc nhở chúng ta suy nghĩ về ngày
tận số của mình, tức là về ngày chết
của chính chúng ta. Chết là cái mốc
cuối cùng mà bất cứ ai đã sinh ra ở đời
này thì trước sau gì cũng sẽ tới ngày ấy, vì
thế chúng ta phải nghĩ tới nó, chúng ta phải tính
toán, phải nghĩ tới ngày chết của mình. Nói khác đi, chúng ta phải nghĩ tới
cuộc sống vắn vỏi của mình nơi trần
gian. Thật vậy, cuộc đời
con người sánh với thời gian đã chẳng là gì,
nhưng nếu sánh với sự sống vĩnh cửu
lại càng mong manh hơn biết bao. Cuộc
đới không những phù du mà còn kèm theo
tính cách bất ngờ nữa, không ai biết
được khi nào mình chết, ngày giờ chết là
bất ngờ nên Chúa dạy chúng ta phải luôn tỉnh
thức và sẵn sàng.
“Tỉnh thức”, theo
nguyên nghĩa là không ngủ, và cũng có nghĩa là sẵn
sàng. Người ta có thể tỉnh thức để
tiếp tục làm cho xong một công việc, hoặc
để tránh một điều tai hại có thể
xảy đến, cho nên, tỉnh thức còn có ý nghĩa là
canh phòng, túc trực giao tranh, phấn đấu chống
sự lơ đãng cẩu thả để đạt
một mục đích đã nhắm. Đó chính là ý nghĩa
của tiếng “canh thức” Chúa Giêsu căn
dặn chúng ta: hãy chờ đợi Chúa đến trong tinh
thần sẵn sàng, là luôn sống trong ơn nghĩa Chúa.
Chúng ta hãy nghĩ tới trường hợp
của hai người vợ cùng có chồng đi vắng
xa lâu năm: một người, tuy xa chồng nhưng tâm
hồn lúc nào cũng tưởng nhớ tới chồng,
vẫn coi như chồng đang có mặt ở nhà, bà
săn sóc con cái chu đáo, gánh vác phần chồng, tiếp
tục gây dựng gia đình như xưa. Còn bà kia, cũng nhớ tới chồng, nhưng
chán nản, bỏ bê con cái, chểnh mảng việc nhà, lâu
lâu lại tìm vui với những người đàn ông khác,
khiến mọi người dị nghị đàm tiếu.
Bây giờ, bỗng nghe tin cả hai người chồng
đều trở về với gia đình, chắc hẳn
hai người vợ trên sẽ đón tin này, mỗi
người một cách khác nhau. Cũng
thế, nếu chúng ta tỉnh thức mong chờ Chúa
thế nào, thì Chúa sẽ đến với chúng ta như vậy.
Cho nên, chúng ta phải chuẩn bị đón Chúa luôn luôn,
để bất cứ lúc nào Chúa đến chúng ta cũng
sẵn sàng: “Cửa trời hẹp lắm ai ơi,
muốn vô thì phải ép mình chớ quên”.
|