Phán xét cuối
cùng
(Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ
cảnh
Có những người gọi đây là
“dụ ngôn về cuộc phán xét thế gian”. Tuy nhiên,
nếu muốn đúng nghĩa dụ ngôn, chúng ta chỉ có
cc. 32b-33, được coi như một dụ ngôn
ngắn. Phần lớn của bản văn
được tạo nên bởi hai mẩu “đối
thoại phán xét” chính (cc. 34-40.41-45). Có thể gọi đây
là một bức họa về phán xét. Đây không phải
là một bản văn khải huyền, vì không có thị
kiến, cũng không phải là một bài huấn giáo
về phán xét, vì không có một lần nào bản văn
ngỏ lời trực tiếp với các độc
giả.
Qua bản văn hôm nay, chúng ta gặp
được niềm hy vọng của Hội Thánh vào
Đức Kitô quang vinh (“Chúa” [Kyrios]: cc. 37.44; Đức Vua:
cc. 34.40 // “mục tử”: c. 32). Hẳn là tác giả đã lấy
cảm hứng từ các bản văn ngôn sứ như Tv
2,7; 110,1-3; Đn 7,14. Tuy nhiên, ngoại trừ quang cảnh
hùng vĩ đó, sứ điệp trọng tâm của
bản văn vẫn không khác sứ điệp của
những bản văn đi trước: Người
đầy tớ trung tín (24,45-51), Các trinh nữ (25,1-13), Ba
người tôi tớ (25,14-30) trong đó ta thấy cuộc
gặp gỡ với ông chủ, cũng được
gọi là kyrios, kết thúc với phần thưởng
hoặc hình phạt.
2.- Bố
cục
Bản văn có thể chia thành bốn
phần:
1) Quang cảnh Phán xét cuối cùng (25,31-33);
2) Xét xử những người bên phải
(25,34-40);
3) Xét xử những người bên trái
(25,41-45);
4) Kết luận (25,46).
3.- Vài
điểm chú giải
- muôn dân (32): Theo S. Hre Kio
(“Understanding and Translating “Nations” in Mt 28,19”, dans The Bible
Translator 41 (1990) 236), trong số 16 lần từ ngữ ethnê
được dùng trong Mt, chỉ có ba lần liên hệ
với cuộc phán xét thế gian (24,7; 24,14; 25,32), thì
rất có thể từ ngữ phải được
hiểu theo nghĩa tổng quát, không giới hạn (= Do
Thái + Dân ngoại); trong những trường hợp khác,
từ này được hiểu là “Dân ngoại” (4,15; 5,47;
6,7; 6,32; 10,5; 10,18; 12,18; 12,21; 18,17; 20,19; 20,25; 21,43; 24,9).
- tập hợp trước
mặt Người (32): Cựu Ước cũng
đã nói đến cuộc quy tụ hoành tráng các dân trên
thế giới lại để chịu Thiên Chúa phán xét (Ge
4,2; Is 66,18; Gr 25,31; v.v.). Ở đây chúng ta cũng gặp
lại viễn tượng ấy: đây không còn phải
là cử chỉ từ bi thương xót của
người mục tử cánh chung quy tụ những
người được chọn (Mk 4,6; Xp 3,19; Ed 34,12-13)
hoặc quy tụ cả Do Thái lẫn Dân ngoại vào
một đoàn duy nhất (Gr 3,17), nhưng là hành vi uy
quyền triệu tập loài người ra trước tòa
Thiên Chúa.
- tách biệt chiên với dê
(32): Chính xác thì đây là chiên và dê con. Ban ngày chúng có thể
đi chung, nhưng về đêm người ta phải tách
dê con ra để giữ cho chúng ấm. Vì chiên thì có giá
trị hơn dê con, ta hiểu tại sao chiên
được đặt về bên phải vị Thẩm
phán cánh chung, vì chỗ bên phải là chỗ danh dự.
- Lạy Chúa, có bao giờ chúng con
đã thấy Chúa đói mà cho ăn (37): Không phải
là những người lành quên, nhưng họ không biết
là khi giúp đỡ những người túng cực là
họ đã làm cho chính Con Người. Ý nghĩa tròn
đầy của các hành vi của họ chỉ
được vén mở vào giờ cuối cùng.
Điều này hoàn toàn phù hợp với nền luân lý
của Mt (“Cha của anh, Đấng thấu suốt
những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh”, Mt 6,4).
- những anh em bé nhỏ nhất
(40): Từ ngữ “bé nhỏ” (nêpios và mikros)
được dùng nhiều lần trong Mt để
gọi những thành viên yếu hơn hoặc có nhu cầu
hơn trong cộng đoàn (11,25; 26,16: nêpios; 10,42; 13,32; 18,6;
26,39.73: mikros), còn từ elakistos, “bé nhỏ nhất”
để gọi con người thì chỉ xuất
hiện trong bản văn ở đây mà thôi. Dường
như từ này không đồng nghĩa với hai từ
trên, mà lại có nghĩa xã hội nhiều hơn.
4.- Ý nghĩa
của bản văn
Bản văn của chúng ta là bản văn
cuối cùng trước khi truyện Thương Khó
bắt đầu, đồng thời, là giáo huấn
cuối cùng Đức Giêsu ban cho các môn đệ.
* Quang cảnh Phán xét cuối cùng (31-33)
Bản văn mở ra với một quang
cảnh hùng vĩ: Con Người “đến trong vinh
quang”: Người vẫn là mục tử “tách biệt chiên
với dê”, nhưng cũng là Đức Vua uy phong chủ
trì cuộc xét xử chung cuộc. Chúng ta mường
tượng ra khung cảnh được nói đến
trong dụ ngôn Cỏ lùng (13,41-43), với cùng những nhân
vật (một bên: Con Người, các thiên thần, Chúa Cha,
những người công chính, những người làm
việc tốt; bên kia: ma quỷ, các thiên thần của ma
quỷ, những kẻ xấu, những kẻ bị chúc
dữ), nhưng được triển khai rộng ra.
Đức Giêsu xuất hiện trong vinh quang của
Người, chung quanh có các thiên thần, ngự trên một
cái ngai vinh quang (c. 31). Tất cả những yếu tố
mô tả đây là biểu tượng của sự
hiện diện và quyền lực của Thiên Chúa. Vinh quang
là sự hiển lộ rạng rỡ, chói ngời của
Thiên Chúa. Các thiên thần đứng trước nhan
Người làm chứng về sự hiện diện
của Người. Cái ngai tượng trưng uy quyền
của Người, từ đó Người điều khiển
cách chắc chắn.
* Xét xử những người bên phải và bên trái (34-45)
Đã có quyền lực và sự uy hùng
của Thiên Chúa, Đức Giêsu thực hiện việc xét
xử. Lời tuyên án có tính vĩnh viễn, không thể
hồi tố. Đức Giêsu đã đến như “Con
Người”, Đấng đã được Thiên Chúa trao
cho quyền chúa tể, vương vị và vương
quyền (x. Đn 7,14). Người tuyên án như
“Đức Vua” đang thi hành quyền chúa tể vô song
(25,34.40). Người hành động như là “Con Thiên Chúa”
đang lên tiếng nhân danh Chúa Cha (x. 25,34) và đứng
về phía những người túng quẫn,
được coi như là anh em Người và con Thiên Chúa
(c. 40). Người được mọi người có
mặt nhận biết như là “Chúa tể” (cc.
37.44). Trong cuộc xét xử, địa vị và uy
quyền của Đức Giêsu cũng như trọng
lượng lời Người và hành động của
Người được tỏ bày.
Mọi dân tộc, tất cả mọi
người không ngoại lệ, phải trả lẽ
về mình trước nhan Người. Tức khắc có
một chi tiết khiến chúng ta ngạc nhiên: Đây không
phải là những người Israel (23,37–24,31) hoặc các
Kitô hữu (24,45–25,30) mà là “muôn dân” (panta ta ethnê) (c. 32).
Cả trong Cựu Ước lẫn Tân Ước, “các dân
tộc” (ta ethnê) dường như là một từ ngữ
chuyên được dùng để gọi các Dân ngoại.
Tuy nhiên, ở đây cũng có thể hiểu theo nghĩa
bao quát: dân Chúa và Dân ngoại. Tác giả Mt viết cho
một giáo đoàn hỗn hợp, gồm các Kitô hữu
gốc Do Thái và Dân ngoại, để giáo huấn họ
về việc đưa Lời Chúa ra áp dụng (24,45–25,30;
x. Rm 2,13). Đến ngày tận thế, mọi
người, dân Do Thái cũng như người ngoại,
đều được triệu tập đến
trước mặt vị Thẩm phán tối cao. Không ai có
thể coi như không có Người. Mỗi người
sẽ bị xét xử theo tiêu chuẩn chính Người quy
định và Người xác định số phận
đời đời cho từng người. Bất
kể địa vị, giai cấp xã hội, phái tính,
giống nòi hoặc tuổi tác, mọi người
đều bị xét xử theo một tiêu chuẩn như
nhau.
Khi đó, tất cả sẽ bị xét
xử, không phải tùy theo những công trạng đã
đạt hoặc những lỗi đã phạm
đối với các khoản luật lệ nào, nhưng là
những lỗi phạm đến anh chị em
đồng loại. Bản văn không nêu ra những
việc như là một cuộc trả thù chống lại
các thẩm phán bất công và các bạo chúa đã áp bức
Israel hoặc dân mới của Thiên Chúa, nhưng nêu ra
những việc đã không làm cho hạng người cùng
rốt trong bậc thang xã hội. Đây là những việc
làm cho con người (“những anh em”), trong tư cách là con
người, chứ không phải là trong tư cách là người
Israel hay là Kitô hữu. Cũng không có nét gì là chuyên biệt
tôn giáo trong các công việc này. Đức Giêsu đã gọi
những ai thi hành ý muốn của Cha Người là “anh em”
Người (12,48-50). Nhưng ở đây trong tư cách
vị thẩm phán, Người lại nói đến
“những anh em bé nhỏ nhất”, tức là những
người cùng chia sẻ thân phận nghèo khó và khiêm
tốn như Người (x. 11,28-30). Đức Giêsu thích
tự đồng hóa với những người bé
nhỏ, bởi vì đức tính tapeinôsis, “sự khiêm
nhường”, là nhân đức căn bản của
Người (x. 11,28-36) và những người yếu
đuối là đối tượng Người ưu ái
chăm sóc. Tất cả mọi người đều là
“anh em” Người (x. Rm 8,29; Dt 2,11.17), nhưng những
người túng quẫn hơn và xấu số mới là
“anh em” Người cách gần gũi nhất.
Lời tuyên án được công bố vào
cuối một cuộc đời hoặc cuối một
kinh nghiệm, nhưng án xử thì được thực
hiện dọc theo dòng lịch sử. Có thể nói mỗi
người xây dựng chính hạnh phúc hay bất hạnh
vĩnh cửu ngày qua ngày. Loài người sẽ bị xét
xử không phải về những gì đã nghĩ hoặc
đã nói, nhưng về những gì đã làm cho chính anh em
mình. Không phải mọi người đều đã
biết Đức Giêsu, nhưng mọi người
đều có một nẻo đường để
gặp được Người, đó là nẻo
đường “các việc từ bi thương xót”;
đó chính là các việc Người đã làm. Ta gặp
lại giáo huấn của Đức Giêsu: không phải là
nói như Đức Kitô, nhưng là hành động như
Người, mới được chiếu cố. Khi
săn sóc những người “nhỏ bé nhất”,
những người túng quẫn, những người
đói khát, những khách lạ, những người
trần truồng, những người ngồi tù (cc.
35-36), ta vừa làm giống như Đức Kitô vừa
săn sóc chính Đức Kitô. Ta giúp đỡ Đấng
một ngày kia sẽ là thẩm phán.
Khi nhắc đến một vài nhu cầu
sơ đẳng, như thiếu thức ăn, thức
uống, nơi ở, quần áo, và cả tình trạng
bệnh tật và tù đày, Đức Giêsu không muốn cung
cấp một danh sách rốt ráo. Người không yếu
cầu điều không thể làm được, nhưng
việc tặng ban và giúp đỡ vừa sức chúng ta.
Những ai đã dấn thân làm việc
tốt, Đức Giêsu gọi họ là “những kẻ Cha
Ta chúc phúc” và ban cho họ Vương quốc vĩnh
cửu (c. 34). Thiên Chúa trong tư cách là Cha của
Đức Giêsu đã chúc phúc cho họ.
* Kết luận (46)
Như một mặt trời, lòng tốt
của Đức Giêsu và tình yêu của Người rọi
tới họ, làm cho họ tươi nở trong niềm
vui và hạnh phúc, và ban cho họ sự sống viên mãn (c.
46). Những gì họ đã trao tặng cho người thân
cận với sức yếu đuối nay nhận
được đầy tràn do Thiên Chúa ban: tình yêu, sự
hiệp thông, sự sống và niềm vui.
Còn những người khác thì bị
loại khỏi nhan Thiên Chúa. Lửa tượng trưng
sự dày vò và đau đớn giáng xuống trên tất
cả những ai bị loại không được
nhận sự chúc phúc và sự sống của Thiên Chúa.
Họ không được sống trong sự nhân lành chói
chan của Chúa Cha và trong cộng đoàn những
người có sự tốt lành này. Số phận của
họ là cộng đoàn những kẻ ích kỷ và
thất bại, là sự thù ghét căm hờn.
+ Kết
luận
Bài diễn từ đầu tiên của
Đức Giêsu bắt đầu bằng phúc lành (5,3-12),
bài cuối cùng kết thúc bằng cảnh phán xét cuối
cùng. Toàn thể giáo huấn của Đức Giêsu
được gom lại giữa hai giáo huấn quan
trọng này, là những giáo huấn nói về những gì
chúng ta có thể chờ đợi từ nơi Thiên Chúa và
những gì chính chúng ta phải làm. Trong bài nói về phán xét
cuối cùng, Đức Giêsu nhấn mạnh đến
việc trao tặng nhưng-không, tỏ bày lòng từ bi
thương xót và sự tốt lành cho người anh em.
Đấy là yếu tố chính, lãnh vực chuyên biệt
để chúng ta hành động. Tuy nhiên, cũng không
được quên những giáo huấn khác của
Đức Giêsu. Nhận biết uy quyền của
Người và quyền lực của Chúa Cha làm cho chúng ta
có khả năng và thúc đẩy chúng ta hành động
theo các tiêu chuẩn của Chúa Cha cũng là của
Đức Giêsu.
5.- Gợi ý suy
niệm
1. Tất cả những gì chúng ta là và có đều
là của cải được ký thác. Chúng ta không
được phung phí theo ngẫu hứng, nhưng
phải sử dụng theo ý muốn của Thiên Chúa và
nhằm phục vụ Ngài (25,14-30). Bài Tin Mừng hôm nay cho
biết ý muốn của Thiên Chúa là gì và việc phục
vụ được yêu cầu hệ tại điều
gì: giúp cho một người ở trong tình cảnh
quẫn bách là giúp chính Đức Giêsu. Việc giúp
đỡ ấy khiến chúng ta được chấp
nhận trong ngày phán xét để được đi vào
cuộc sống vĩnh cửu. Từ khước hoặc
bỏ qua không giúp đỡ người khác sẽ
khiến chúng ta bị kết án vào ngày phán xét và đưa
chúng ta đến hình phạt đời đời.
2. Những người nghèo khó túng cực tự
họ không thể tự đồng hóa với Đức
Giêsu, nhưng chính Người tự đồng hóa với
họ. Do đó, mỗi việc giúp đỡ dành cho
những người nhỏ bé có một giá trị bền
vững. Đàng sau mỗi người, và nhất là
đàng sau mỗi người nhỏ bé, yếu
đuối, bị thử thách, có Đức Giêsu đang
hiện diện; trong con người này, Đức Giêsu
gặp chúng ta và xin chúng ta giúp đỡ. Do Đức Giêsu,
mỗi người nhận được một phẩm
giá thường hằng, và hành động được
thực hiện vì Người sẽ nhận
được một giá trị vô song và quyết
định đối với số phận của mình.
3. Đức Giêsu không nói: Ta đã bị bệnh và
các ngươi đã chữa ta lành, Ta đã bị tù và các
ngươi đã giải thoát Ta. Chữa lành bệnh
tật và giải phóng thường vượt quá khả
năng chúng ta. Tuy nhiên, để chia sẻ thì không cần
nhiều của cải hoặc những tài năng
đặc biệt, nhưng cần một trái tim rộng
mở và có lòng thương cảm. Bởi vì có rất
nhiều nhu cầu khác nhau, về thể lý, tâm lý hoặc
tinh thần. Điều đầu tiên là phải có con
mắt, trái tim và sự nhạy cảm; nhất là phải
nhận ra nhu cầu của người anh chị em.
4. Bài học của đoạn Tin Mừng này đã
rõ: Đến cuối đời, chúng ta sẽ
bị phán xét về tình yêu. Những người công chính là
những người đã chu toàn Luật Thiên Chúa, như
chính Đức Giêsu đã diễn tả qua điều
răn lớn nhất. Một lần nữa, ở đây,
Người lại đồng hóa tình yêu đối
với tha nhân với tình yêu đối với Thiên Chúa.
Để những việc ta làm cho anh chị em
được gọi là “tốt”, ta hãy làm việc ấy
cho chính Thiên Chúa.
5. Tác giả Mt tin rằng Hội Thánh Kitô giáo không có
một vị trí đặc biệt nào tại cuộc phán
xét. Các Kitô hữu cũng bị xét xử bởi Con
Người, Đức Chúa của họ, chỉ dựa
trên các hành vi yêu thương họ đã làm, y như
bất cứ người nào khác. Chính vì thế, họ
chẳng có gì để tự mãn.
|