Dụ ngôn những tá điền sát nhân - JKN
Câu hỏi gợi ý:
1.
Dụ ngôn trên ám chỉ những ai? Nó
chỉ áp dụng cho dân Do Thái và các nhà lãnh đạo Do Thái
giáo thời đó, hay nó có tính hiện sinh, nghĩa là có
thể đúng với chính Ki-tô giáo của chúng ta hiện
nay?
2.
Liệu Thiên Chúa có thể nói về Ki-tô
giáo như đã nói về Do Thái giáo: «Tôi những mong trái
tốt, sao nó sinh nho dại?». Và Ngài có
thể nói về chính bản thân tôi như vậy không?
3.
Thiên Chúa có cần phải thay thế
Ki-tô giáo bằng một tôn giáo mới như Ngài đã
phải thay thế Do Thái giáo bằng Ki-tô giáo không?
Suy tư gợi ý:
1. Ý nghĩa dụ
ngôn những tá điền sát nhân
Bài Tin Mừng hôm nay
là một dụ ngôn có ý nói bóng gió về tình trạng đã,
đang và xảy ra trong dân Do Thái, mà trước mắt có
sự góp phần của giới lãnh đạo tôn giáo Do
Thái là âm mưu giết Đức Giê-su. Kết cục
được diễn tả trong câu cuối của bài Tin
Mừng là: Dân Do Thái được Thiên Chúa dành ưu tiên
trong việc vào Nước Thiên Chúa, nhưng vì họ
tỏ ra không xứng đáng, nên chỗ ưu tiên của
họ được nhường cho những dân tộc
khác.
Thiên Chúa đã yêu quí
dân Do Thái, điều này được diễn tả trong
bài đọc I: Thiên Chúa cưng chiều dân Do Thái như
một người có một vườn nho mà anh ta rất
quí: “Anh ra tay cuốc đất nhặt đá, giống nho
quý đem trồng, giữa vườn anh xây một
vọng gác, rồi khoét bồn đạp nho” (Is 5,2a). Anh
quí nó đến nỗi làm cho nó tất cả những gì mà
anh nghĩ nó cần nó thích: “Có gì làm hơn được
cho vườn nho của tôi, mà tôi đã chẳng làm?” (5,4). Anh ta kỳ vọng rất nhiều vào
vườn nho đó, nhưng vườn nho đã làm anh
thất vọng: “Anh những mong nó sinh trái tốt, nó
lại sinh nho dại” (5,2b). Một
vườn nho như thế thì người chủ nên làm
gì cho nó? Thất vọng vì vườn nho ấy, anh ta
đã “hàng giậu thì chặt phá cho vườn bị tan
hoang, bờ tường thì đập đổ cho
vườn bị giày xéo (…) biến thửa vườn
thành mảnh đất hoang vu, không tỉa cành nhổ
cỏ, gai góc mọc um tùm; truyền lệnh cho mây
đừng đổ mưa tưới xuống” (5,5-6).
Vườn nho đó được I-sai-a xác định:
“Vườn nho đó chính là nhà Ít-ra-en; cây nho Chúa mến yêu
quý chuộng, chính là người xứ Giu-đa.
Người những mong họ sống công bình, mà chỉ
thấy toàn là đổ máu; đợi chờ họ làm
điều chính trực, mà chỉ nghe vẳng tiếng khóc
than” (5,7).
Trong dụ ngôn bài Tin
Mừng hôm nay, Đức Giê-su tiếp tục khai triển
chủ đề “vườn nho” của bài đọc I
(Is 5,1-7), với những ám chỉ sau đây: 1. Vườn
nho ám chỉ dân Do Thái; 2. Ông chủ đất: Thiên Chúa; 3.
Bọn tá điền: Các lãnh tụ tôn giáo Do Thái; 4. Các tôi
tớ của chủ đất: Các ngôn sứ
được Thiên Chúa sai đến; 5. Người con
trai của ông chủ: Đức Giê-su; 6. Các tá điền
khác: Dân ngoại.
Toàn bài dụ ngôn nói
lên diễn tiến trong lịch sử dân Do Thái: Thiên Chúa
chọn Do Thái là dân riêng của Ngài giữa mọi dân
tộc. Ngài muốn họ là cầu nối
giữa Ngài với mọi dân tộc khác và với toàn nhân
loại. Để thực hiện mục
đích ấy, Ngài đã sai các ngôn sứ đến
để dạy dỗ, sửa đổi và cho họ
biết ý định của Ngài. Nhưng lời nói
của những ngôn sứ này thường không lọt
lỗ tai các lãnh tụ tôn giáo Do Thái, vì
“trung ngôn nghịch nhĩ”, “lời thật mích lòng”. Và
kết quả là các ngôn sứ này đều bị ném
đá chết dưới tay các lãnh
tụ tôn giáo Do Thái. Chính ngôn sứ Ê-li-a đã phải than
phiền: “Khi cầu nguyện với Thiên Chúa, ông đã
tố cáo dân Ít-ra-en rằng: Lạy Chúa, các ngôn sứ
của Ngài, chúng đã giết chết; bàn thờ của
Ngài, chúng đã phá huỷ. Chỉ còn sót lại một mình
con, thế mà chúng cũng đang tìm hại mạng sống
con” (Rm 11,3; x. V 19,10.14).
Cuối cùng, Thiên Chúa
sai chính Con Một của mình đến cũng để
làm công việc ngôn sứ ấy, thì cũng bị họ
giết chết một cách dã man và thảm hại. Dân Do
Thái vì hèn nhát trước quyền lực nên cũng hùa theo các lãnh tụ của họ. Vì thế, dân Do Thái đã bị Thiên Chúa loại
bỏ, mất quyền ưu tiên đối với
Nước Trời. Và Nước Trời do
Đức Giê-su thiết lập - gồm những
người tin theo Đức Giê-su - bao gồm những
người mà người Do Thái gọi là dân ngoại,
gồm đủ mọi dân tộc trên thế giới.
Còn dân Do Thái đã
bị đào thải khỏi lịch sử: tháng 9 năm
70, Titus, lúc ấy làm thống soái quân đội Rôma (sau làm
hoàng đế năm 79-81), đã bao vây và chiếm Giê-ru-sa-lem,
giết rất nhiều người Do Thái. Kể
từ đó, Do Thái bị mất nước, và dân Do Thái
phải tản mác khắp nơi trên thế giới. Đến thế chiến thứ hai, dân Do Thái
tại Đức đã bị Hitler giết tới 6
triệu người. Mãi đến năm 1947, sau
gần 19 thế kỷ bị mất nước, Do Thái
đã lập quốc trở lại tại vùng đất
cũ, nhưng kể từ đó, họ phải chiến
tranh liên tục với dân Palestin và Ai Cập cho đến
nay.
2. Dụ ngôn đó có
áp dụng cho Giáo Hội chúng ta không?
Khi tôi học Cựu
Ước, giáo sư dạy Kinh Thánh cho tôi thường
nói: “Israel là Giáo Hội, Israel là chính tôi”. Vì
thế, nếu bài dụ ngôn kia có
thể áp dụng cho dân Do Thái, thì cũng có thể áp
dụng cho Giáo Hội và cho chính bản thân tôi.
Do Thái giáo là một
tôn giáo do chính Thiên Chúa thiết lập qua các tổ phụ,
Mô-sê và các ngôn sứ, với hàng giáo phẩm là các tư
tế, lê-vi và các ráp-bi. Thiên Chúa đã
trực tiếp can thiệp vào lịch sử của dân
tộc, đã ra tay giải phóng dân
tộc Do Thái khỏi ách thống trị Ai Cập, đã
đích thân ban hành luật pháp cho họ, đã trực
tiếp chỉ định những vì vua cai trị họ…
Ngay cả Ki-tô giáo hiện nay cũng chưa
được Thiên Chúa trực tiếp can thiệp như
thế. Có ngôn sứ nào trong Ki-tô giáo oai hùng như I-sa-i-a,
khi ra lệnh cho dân Do Thái điều gì thì đều nói:
“Thiên Chúa là Chúa các đạo binh phán như thế” (x. Is
1,24; 3,15; 5,9; 10,24; 14,22-24; 17,3; 19,4; v. v…) Vì thế, dân Do Thái
đã rất có lý khi nghĩ rằng tôn giáo của mình do
Thiên Chúa thiết lập ắt sẽ vĩnh cửu, và
sẽ lan tràn khắp thế giới. Nhưng
lịch sử cho chúng ta thấy họ đã lầm.
Do Thái giáo đã tàn lụi, và được thay thế
bằng Ki-tô giáo. Có thể nói, Do Thái giáo chính
là tiền thân của Ki-tô giáo.
Ki-tô giáo hiện nay
cũng đang tự hào là tôn giáo duy nhất do chính Thiên Chúa
thiết lập, là tôn giáo có giá trị hơn hết
mọi tôn giáo trên thế giới, nên mọi Ki-tô hữu đều
tin tưởng nó sẽ tồn tại muôn đời, và
sẽ lan tràn khắp thế giới. Nhưng
nhiều khi các Giáo Hội Ki-tô giáo chỉ biết tự hào
như thế mà quên đi niềm mong ước của
chính Thiên Chúa đối với mình. Liệu Thiên Chúa có
phải than phiền về Ki-tô giáo như đã than về
Do Thái giáo: “Có gì làm hơn được cho vườn nho
của tôi, mà tôi đã chẳng làm? Tôi
những mong trái tốt, sao nó sinh nho dại?” Ki-tô giáo đã hơn Do Thái giáo những gì?
Đức Giê-su
đến để thiết lập một tôn giáo mới
dựa trên nền tảng tình yêu thương, và luật
của Ki-tô giáo là luật yêu thương: “Thầy ban cho
anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu
thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy
đã yêu thương anh em” (Ga 13,34); “Ai yêu người, thì
đã chu toàn Lề Luật” (Rm 13,8.10); “Anh em hãy mang gánh
nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật
Đức Ki-tô” (Gl 6,2); “Luật Kinh Thánh được
đưa lên hàng đầu: Ngươi phải yêu
người thân cận như chính mình” (Gc 2,8).
Luật của Tân
Ước mới hẳn so với Cựu Ước
của Do Thái giáo, nhưng các Ki-tô hữu đã coi trọng
luật ấy đủ chưa? đã
tập trung mọi cố gắng để thực hành
luật ấy đúng mức chưa? Hay Ki-tô giáo lại
đi vào vết xe đã đổ
của Do Thái giáo, là thượng tôn nghi thức, quá chú
trọng tới những lễ nghi và hình thức bên ngoài? Còn lề luật chính yếu là sống yêu
thương thì lại lãng quên? Có phải hiện nay
hình thức của Ki-tô giáo thì mới mẻ và khác hơn Do
Thái giáo, nhưng tinh thần nệ luật, nệ hình
thức thì chẳng khác gì những người Do Thái ngày
xưa? Đã tới lúc chúng ta cần nghiêm túc tự
hỏi: ngày nay, người ngoài nhìn vào cách sống của
người Ki-tô hữu, có thể nhận ra đạo
của chúng ta là “đạo yêu thương” như thời
Ki-tô giáo sơ khai không? Ngày nay, lễ “bẻ bánh” có còn là
một dấu chỉ của một sự chia sẻ có
thực trong đời sống giữa những
người đến tham dự không, hay nó đã trở
thành một nghi thức thuần túy, cho dù đầy ý
nghĩa nhưng không có gì là thực tế cho lắm?
Mỗi Ki-tô hữu -
nhất là những người có trách nhiệm
hướng dẫn, lãnh đạo tôn giáo - cần tự
vấn: Thiên Chúa hay Đức Giê-su có hài lòng với tình
trạng Ki-tô giáo hiện nay không? Còn những người
lãnh đạo tôn giáo cần tự vấn thêm: Tôi có
giống như những vị lãnh đạo Do Thái giáo
xưa, chẳng những không thèm nghe mà còn sẵn sàng
bạc đãi hoặc bách hại những tiếng nói ngôn
sứ vào thời đại của mình không? Hay ít ra khi
họ bị bách hại vì đã chu toàn
chức năng ngôn sứ của họ, tôi đã im
lặng, làm ngơ, để mặc họ bị bách
hại như thể tôi cũng đồng ý với sự
bách hại ấy?
Không khéo Ki-tô giáo
của chúng ta chẳng hơn gì Do Thái giáo, khiến Thiên Chúa
cũng sẽ phải đối xử với chúng ta
như đã đối xử với dân Do Thái: “Nước
Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa,
mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa
lợi”!
Cầu nguyện
Lạy Cha, Ki-tô giáo hiện nay thế nào,
chính con - cũng như bất kỳ Ki-tô hữu nào -
đều có phần nào trách nhiệm. Xin cho con biết
sống đạo Chúa Ki-tô đúng với với tinh
thần yêu thương của Ngài. Xin cho con rút ra
được bài học lịch sử của dân Do Thái
để tránh được vết xe
đã đổ.
|