Nghe và
làm – Lm. FX. Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Nhìn vào dàn bài tổng
quát của phân đoạn gồm các chương 21 và 22, ta
nhận ra đặc tính bút chiến của ba dụ ngôn
Đức Giêsu kể ra nhằm biện minh cho kế hoạch
của Thiên Chúa:
1) Dụ ngôn Hai
người con (21,28-32) xác định
trong Israel có những
người tội lỗi thực sự vì bất
phục tùng.
2) Dụ ngôn
Những tá điền sát nhân (21,33-43)
vạch trần kế hoạch sát nhân của người
Do Thái và loan báo chương trình của Thiên Chúa là sắp
chuyển sứ mạng của người Do Thái cho Dân
ngoại (c. 45 cho thấy rằng các thượng tế và
người Pharisêu hiểu là Người nói về họ,
và như thế là gián tiếp nhìn nhận dự tính sát nhân
của họ).
3) Dụ ngôn Tiệc
cưới hoàng gia (22,1-14) gom lại các
dữ kiện của hai dụ ngôn trước (từ
khước vì bất phục tùng, sát hại người
con trai, hủy diệt những kẻ sát nhân, kêu gọi
những người khác).
Ba bài dụ ngôn này
cũng được trình bày tiệm tiến (làm việc,
cung cấp hoa trái, đến dự tiệc). Dụ ngôn Những
người thợ làm vườn nho (20,1-16)
đã nêu bật rằng Thiên Chúa không hề bị lệ
thuộc hành vi con người; Ngài hoàn toàn tự do và
tốt lành. Trong dụ ngôn Hai người con, Đức
Giêsu cho thấy lần nữa rằng thi hành ý muốn
của Thiên Chúa là một bổn phận không thể tránh
né.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia làm ba
phần:
1) Dụ ngôn Hai người con (21,28-30);
2) Câu hỏi đặt ra cho thính
giả (21,31);
3) Bài học kết thúc (21,32).
3.- Vài điểm chú
giải
- Các ông nghĩ sao?
Một người kia có hai con trai (28): Đức Giêsu
hỏi ý kiến của các thính giả và cả các
đối thủ của Người. “Người kia”
tượng trưng Thiên Chúa; còn “hai người con”
tượng trưng cho hai thành phần làm nên Dân Thiên Chúa vào
thời Đức Giêsu: những người “tội
lỗi”, không tuân giữ Lề Luật và các quy định
của kinh sư, và những người “công chính” trung
thành với tôn giáo chính thức, ở đây là các thủ
lãnh của Dân. Cả hai bên đều được
gọi là “con” của Thiên Chúa.
- nó hối hận (30): Tác giả Mt
không dùng động từ “hoán cải” (metanoeô) mà là
động từ metamelomai, chỉ có ở đây và ở
Mt 27,3, nhưng được dùng nhiều trong Bản LXX
theo nghĩa là “quay trở về với Thiên Chúa” (Ed 14,22; Tv
105,45; Xh 13,17…). Metamelomai có thể có nghĩa đơn
giản là “thay đổi tâm trí, nghĩ lại”, nhưng
ở đây, cũng như ở c. 32 và 27,3,
rất có thể cũng có nghĩa là “hối hận”. Động từ này không có trọng lượng
thần học của động từ metanoeô.
- vào
Nước Thiên Chúa trước các ông (31): Động
từ proagô thường có nghĩa là “đi trước”,
nhưng ở đây có nghĩa là “chiếm chỗ”. Đây là một kiểu nói A-ram.
- Nước Thiên
Chúa
(31): Cụm từ basileia tou theou (Nước Thiên Chúa) không
thông dụng trong Mt, nó đến từ truyền thống
có trước, nhưng cũng có ý nghĩa như basileia tôn
ouranôn (Nước Trời)
4.- Ý nghĩa của
bản văn
Bản văn này
được đặt trong khung cảnh một cuộc
tranh luận giữa Đức Giêsu với các thượng
tế và kỳ mục trong dân (x. 21,23). Sau khi Người đã khéo léo từ chối
trả lời họ về nguồn gốc của
“quyền” của Người, Đức Giêsu kể
dụ ngôn Hai người con. Dụ ngôn
này mở đầu và kết thúc bằng một câu
hỏi mà họ phải trả lời.
* Dụ ngôn Hai
người con (28-30)
Cả hai
người con đều được cha đề
nghị với giọng thân tình là đi làm vườn nho
cho ông. Phản ứng của họ hoàn toàn
khác nhau. Người thứ nhất trả lời
bằng một câu “Con không muốn” khô khan và bất
lịch sự, không đưa ra một lý do nào. Nhưng rồi anh nghĩ lại, “hối hận”
(metamelêtheis), và đi làm việc trong vườn nho.
Người thứ hai đáp lại bằng một câu “Con
đây, thưa ngài! (egô kyrie)” lịch
thiệp và khả ái: một kiểu xưng hô hợp
với một nô lệ hơn là với một
người con; anh hứa vâng phục. Tuy
nhiên, anh lại không đi đến vườn nho.
* Câu hỏi
đặt ra cho thính giả (31)
Câu hỏi của
Đức Giêsu (“Trong hai người con đó, ai đã thi
hành ý muốn của người cha?”, c.
31a) quá rõ là chỉ có thể có một câu trả lời mà
thôi. Người đã thi hành ý muốn của cha chỉ có
thể là người con đã đi làm việc trong
vườn nho mà thôi. Do đó, câu trả lời của
họ là: “Người thứ nhất”. Nhưng vì đây là
một dụ ngôn nhắm đưa tới một quyết
định mang tính pháp lý làm mẫu, khi trả lời,
họ đã tuyên bố án xử trên chính
họ.
Với một câu có
từ amen long trọng mở đầu, Đức Giêsu
lại quay về trực tiếp với các đối
thủ và áp dụng dụ ngôn vào họ. Những
người thu thuế và những cô gái
điếm là hai nhóm người ở bậc thấp
nhất trong hệ thông tôn giáo đương thời và
về giá trị luân lý. Họ là những con người
bị coi là không có phẩm cách cả về tôn giáo lẫn
luân lý, nhưng lại được Đức Giêsu
đặc biệt chiếu cố đến (x. Mc 2,13-17;
Lc 18,9-14; 7,36-50; Ga 7,53–8,11). Họ sẽ
được vào Nước Thiên Chúa trước các nhà
lãnh đạo Israel.
Như thế, khi
trả lời Đức Giêsu, các nhà lãnh đạo Do Thái
đã phải tuyên bố chính bản án
về mình. Tuy nhiên, không dễ mà áp dụng
dụ ngôn vào họ, vì các khác biệt quá lớn. Đâu là sự đối lập giữa nói và làm
mà bài dụ ngôn nêu bật? Có bao giờ
họ đã thưa vâng với lời Gioan và Đức
Giêsu công bố về Nước Thiên Chúa, mà rồi không
chịu áp dụng giáo huấn của các ngài? Phải
chăng những người thu thuế
và các cô gái điếm đã vâng theo, rồi nay loại
bỏ? Lại càng khó áp dụng câu amen (c. 31c)
vào cuộc tranh luận cụ thể về quyền bính
của Đức Giêsu và về phép rửa của Gioan
ở cc. 23-27. Dường như cả
dụ ngôn lẫn áp dụng ở c. 31c đều không liên
hệ gì đến Gioan Tẩy Giả cả. Do
đó, trong c. 32, tác giả Mt tìm cách làm sáng tỏ cách áp
dụng và xây dựng mối liên kết với cc. 23-27.
* Bài học kết
thúc (32)
Câu kết thúc liên
kết dụ ngôn và cách áp dụng vào cuộc tranh luận
giữa Đức Giêsu với các thượng tế và các
kỳ mục ở cc. 23-27. Đức Giêsu thấy
xuyên qua những chuyện họ thì thầm với nhau (c.
25). Bây giờ Người mới trả lời cho
câu hỏi chính Người đặt ra về Gioan Tẩy
Giả, và Người nói thẳng vào mặt các đối
thủ: Gioan “đã đến với các ông trong
đường công chính”, nhưng các ông đã không tin ông
ấy. Có nghĩa là các ông đã không vâng
lời ông ấy và nhìn nhận quyền bính thần linh
của ông ấy. Do đó, các ông đã không hối
hận (oude metemelêthête), và lại còn tệ
hơn cả hai người con trong bài dụ ngôn. Cụm
từ “trong đường công chính” (en [h]odô dikaiosynês) không
phải là một công thức Kinh Thánh theo
mặt chữ, nhưng ngôn ngữ Kinh Thánh vẫn nhắc
nhớ rằng phải sống phù hợp với ý muốn
của Thiên Chúa. Đây là hướng phải theo để hiểu bản văn của
chúng ta. Công thức này một đàng nhắc độc
giả nhớ đến 3,15, là câu nói về sự công
chính mà Gioan thực hiện khi làm phép rửa cho Đức
Giêsu, đàng khác, nhớ đến 11,18, là câu nói
đến Gioan “nhà khổ hạnh” (“không ăn không
uống”) “đến”. Câu 31c hàm ý là “những
người thu thuế và các cô gái điếm”, không
giống các nhà lãnh đạo Do Thái, “đã tin” Gioan.
Câu này sai niên biểu (anachronism), bởi vì chúng ta chỉ nghe
nói đến Đức Giêsu, chứ chưa bao giờ nghe
nói đến Gioan như là người có quan tâm
đặc biệt đến các người thu thuế và các cô gái điếm. Tuy nhiên, ý
tưởng rút ra từ c. 31c là quan trọng: vị trí
trước nhan Thiên Chúa của các thượng tế và
kỳ mục một bên và các người thu
thuế và gái điếm bên kia đã bị đảo
ngược. Điểm khác biệt là
ngữ cảnh đã làm cho từ “(đi) trước”
tương đối của c. 31c trở thành một phân
biệt tuyệt đối. Họ tin – nghĩa là vâng
phục – trong khi các nhà lãnh đạo Do Thái thì không. Trong khi
các nhà lãnh đạo Do Thái đã thấy những
người bị khinh dể đến với đức
tin, kinh nghiệm vẫn không làm cho họ phải ghen
tức (x. Rm 11,14), nên họ không giống người con
thứ nhất, “sau đó (hysteron), đã hối hận”. Đối với tác giả Mt, “sau đó” đã
đi đến hiện tại của ngài. Chính ngài và Hội Thánh ngài biết rằng “sự
hối hận” này vẫn chưa xảy ra ngay ngày hôm nay.
+ Kết luận
Qua bài dụ ngôn này,
Đức Giêsu dạy chúng ta đừng phê phán về giá
trị tôn giáo của người ta dựa theo
một bảng phân loại các hạng người hoặc
thể theo những cam kết về lý thuyết hay nguyên
tắc. Nói cho cùng, chính cách xử sự cho thấy
đáy lòng.
Khi so sánh dụ ngôn
này với dụ ngôn Người con hoang đàng, ta có
thể thấy được là các quan hệ giữa
Đức Giêsu và giới lãnh đạo Israel xấu đi rõ ràng.
Người con nói không, rồi hối
hận, có lẽ ít đáng bị trách hơn đứa con
hoang đàng, nhưng người con nói vâng mà không làm gì
cả thì bị phê phán nghiêm khắc hơn người anh
cả ghen tị. Trong bài dụ ngôn Luca
(ch. 15), thính giả có ấn tượng là người cha
gia đình còn hy vọng bao trùm sự ghen tương
tồi tệ của đứa con cả bằng tình thương
của ông. Nhưng khi nghe dụ ngôn Hai người
con, ta đoán ra rằng Đức Giêsu không còn hy vọng
hoán cải người Pharisêu được nữa.
Họ đã chứng kiến sự thánh thiện của
Gioan Tẩy Giả, họ đã thấy những
người thu thuế và các phụ
nữ tội lỗi hoán cải, thế mà họ không
hề băn khoăn nghĩ ngợi! Sự chai đá
của họ thật vô phương cứu chữa!
5.- Gợi ý suy niệm
1. Chúng ta học
nơi Đức Giêsu bài học là không có nhận
định kiểu thành kiến về giá trị tôn giáo
của người ta dựa theo cách phân
loại các hạng người tùy các dấn thân theo nguyên
tắc hay các lý thuyết của họ. Chỉ lối
sống thực tế mới cho thấy lòng dạ con
người.
2. Dù đã nói “không”,
hoặc đã sống xấu xa, chẳng một ai lại
phải tuyệt vọng. Câu trả lời
đầu tiên không phải là lời quyết định,
nếu ta không ở lại trong lời ấy, nếu ta
biết điều chỉnh nó và vượt thắng nó
bằng lối cư xử đúng đắn tiếp sau.
Và lối xử sự đúng đắn
của những người trước đấy đã
sống sai lạc hẳn là phải thúc đẩy
những người vẫn tự nhận là tốt lành
đi đến hoán cải, nhưng không khiến họ
bắt chước hành động trước đây
của mình.
3. Cần phải
đi tìm biết ý Thiên Chúa và mau mắn đón nhận. Cần phải nhận biết các sứ giả
Thiên Chúa gửi đến nhằm thông tri cho ta biết ý
muốn của Ngài. Từ khước
lấy lập trường là một cách lấy lập
trường chống lại ý muốn của Thiên Chúa.
Lời nói không thể thay thế hành
động hữu hiệu. Đã nói là vâng theo ý Thiên Chúa thì phải nghiêm túc thực
hiện thánh ý Ngài trong đời sống mình.
4. Dù chúng ta hay
người anh em có thế nào, tất cả đều là
con của cùng một Cha, được Ngài thương
trọn vẹn, tín nhiệm trọn vẹn, và giao công
việc đồng đều: chăm sóc chính vườn
nho của Ngài. Chúng ta có biết nhận ra vinh
dự đó mà sống cho nghiêm túc đời sống và
sứ mạng của mình, đồng thời giúp anh
chị em cũng sống được như thế
chăng?
|