TA CÓ CHẤP NHẬN ĐỂ CHO PHÚC ÂM LÀM TA SỬNG
SỐT HAY KHÔNG?
Chúa
Giêsu theo thói quen thường dùng dữ kiện trực
tiếp có sẵn trước mắt các môn đệ
để xây dựng một câu chuyện. Những dữ
kiện đó là mùa nho chín cần phải hái mau, là hiện
tượng thất nghiệp trong một xã hội đang
gặp khủng hoảng kinh tế, là số tiền
lương một đồng tương xứng với
mức sống tối thiểu. Bắt nguồn từ
đấy, Chúa Giêsu tưởng tượng ra một
dụ ngôn và qua đó Chúa muốn luồn vào một lời
giáo huấn. Ngài muốn làm cho người ta hiểu
rằng Thiên Chúa không phải là một ông chủ theo
kiểu các chủ nhân trên trái đất này. Những
người này có bổn phận giữ sự công bằng
đối với thợ thuyền. Còn Thiên Chúa,
Người không tự nhận là có một bổn phận
như thế đối với loài người, vì
Người đứng ở bên kia sự công bằng
của loài người. Sự công bằng được
giới hạn ở những gì chúng ta mắc nợ. Sức
cố gắng suốt một ngày làm việc sẽ có
một số tiền công tương xứng của
một ngày, không có gì hơn. Và với sức cố
gắng của suốt một giờ, lẽ công bằng
của loài người sẽ trả số tiền công
tương xứng với một giờ, cũng không có gì
hơn. Nhưng đi xa hơn lẽ công bằng còn có lòng
nhân từ. Và lòng nhân từ không có giới hạn nào hơn
là khả năng ban phát. Thiên Chúa là Đấng nhân từ vô
cùng, Người có khả năng vô biên, Người không
có giới hạn. Lòng nhân từ đi xa hơn điều
mà loài người đáng được hưởng vô
cùng. Thiên Chúa muốn cần tới các tay thợ để
hái quả trong vườn nho của Người. Một
sự công bằng tối thiểu được bảo
đảm, nếu họ quyết tâm ở trên bình diện
ấy, nhưng Thiên Chúa còn biếu thêm nữa nếu
họ có tấm lòng khá rộng lớn. Dụ ngôn này
nhắc lại cho ta là phải tránh suy nghĩ về Thiên
Chúa theo kích thước của loài người. Sự
nhắc lại này thích đáng một cách đặc
biệt ở thời đại ta, lúc mà những khối
óc cho mình là Kitô hữu đang cố gắng lôi kéo Phúc âm
xuống ngang hàng với tư tưởng của loài
người trong lúc cần phải nâng cao nhân tính lên
tới trình độ của Phúc âm.
1) Trình độ của
Phúc âm là trình độ của Tình yêu, mà một trong
những dấu hiệu bên ngoài là lòng nhân từ. Dụ ngôn nhấn mạnh ở một khía cạnh
chính yếu của lòng nhân từ, đó là sự tự do. Chớ
thì tôi không được sử dụng của cải
như sở thích của tôi sao? Sự công bằng không
được tự do, nhưng bị ràng buộc do
bổn phận và những gì ta nợ người khác. Lòng
nhân từ, trái lại, không bị ràng buộc bởi
khế ước. Nó chỉ biết một điều
tất yếu duy nhất, phát xuất từ chính lòng nhân
từ và thúc giục phải ban phát, nó không muốn tạo
ra nơi người thụ hưởng của ban phát
bổn phận phải đền trả. Nó ban phát
nhưng không. Điều này không có nghĩa là nó không chờ
đợi một sự đáp ứng nào. Nó chờ
đợi người ta nhìn nhận, nghĩa là chờ
đợi ở con người một hành động ý
thức và tự do là nhận biết từ đâu và do
kẻ nào mà có những ân huệ mà con người đang
thụ hưởng, một lòng biết ơn
được diễn tả cách thông thường qua
những lời cám ơn lòng tri ân và những lời ca
ngợi. Lòng nhân từ của Chúa nói lên sự tự do
của Chúa lúc ban phát và sự tự do của con
người lúc đón nhận.
2) Trình độ Phúc âm
còn làm xáo trộn cách thức suy nghĩ của loài
người. Dụ ngôn làm người
Biệt phái phải sửng sốt vì nó đặt
người ngoại giáo, những kẻ đến sau,
ngang hàng với con cái Israel trong Nước Trời. Mục
đích của dụ ngôn là làm cho cả ta cũng phải
ngạc nhiên, bởi lẽ trong cộng đoàn Kitô giáo và
ngay cả trong sự cố gắng hàng ngày của ta
để sống trung thành, có lẽ ta cũng có khuynh
hướng tự ban phát cho mình công nghiệp, quyền
lợi và nhiều đòi hỏi. Hãy để ý và khiêm
tốn đặt mình dưới sự cai quản
độc nhất của lòng nhân từ Thiên Chúa. Hãy xin Chúa
ban cho ta cũng như cho anh em ngoại giáo không phải
những gì tương xứng với sự công bằng,
nhưng những gì mà lòng nhân từ của Người
gợi ra.
|