NHỮNG NGƯỜI THỢ LÀM VƯỜN NHO --- Chú
giải của Noel Quesson
Dụ ngôn “những
người thợ làm vườn nho vào giờ sau hết”
rất nổi tiếng. Người ta thường phê bình
dụ ngôn này, đưa ra những phán đoán chỉ trên
bình diện con người theo sự
công bằng xã hội và theo kinh tế. Về
phương diện này, thái độ của vị
Thầy chí thánh ít ra cũng rất kỳ lạ và khác
thường. Một ông chủ xí nghiệp sẽ nói
với bạn rằng theo gương
ông chủ vườn nho chỉ có nước làm phá
sản xí nghiệp. Một “công nhân” sẽ nói với
bạn rằng không tôn trọng một tháng lương
hợp lý căn cứ vào công việc thực tế
được hoàn thành là việc không bình thường; và
một ông chủ độc đoán như thế thật
là bất xứng. Nhưng tất cả
những lời giải thích này thì quá phiến diện
chưa đạt đến sự thật. Rõ ràng
Đức Giêsu không đề cao sự bất công xã
hội. Phải có một cách đọc khác trang Tin Mừng
nổi tiếng này, xứng đáng là một Tin Mừng!
Chúng ta hãy nhớ
rằng “dụ ngôn” là một thể loại văn
chương rất xác đáng mà người ta không thể
đọc bằng bất cứ cách nào cũng được.
Trong một dụ ngôn, khác với lối văn phúng
dụ, mọi chi tiết cụ thể không chứa
đựng bài học: Phải tìm kiếm cao điểm
của câu chuyện, ý nghĩa trung tâm của nó. Những chi tiết còn lại chỉ để
tạo ra sự mạch lạc trong câu chuyện, tô
điểm cho câu chuyện thêm thú vị đôi khi với
sự hóm hỉnh khiến người ta phải chú ý, quan
tâm.
Nước Trời
giống như chuyện gia chủ kia,
vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm
việc trong vườn nho của mình.
Giờ đây,
mọi sự bắt đầu như một câu chuyện
có thật. Chúng ta đang ở Pa-lét-tin trời vừa tảng
sáng. Những “thợ làm công nhật” trên
quảng trường của ngôi làng chờ đợi
người ta đến thuê làm công nhật, ngày này qua ngày
khác. Tình trạng sống lây lất qua ngày ấy
thật thảm hại. Chúng ta phải ghi nhận
điều đó nơi những con người không có
việc làm ổn định: tình trạng này vẫn còn là
tình trạng của hầu hết các người cha trong gia
đình ở các nước thế giới thứ ba.
Tuy nhiên, dù phần mô
tả đoạn đầu có thực tế đến
đâu thì chúng ta cũng được báo cho biết ở
đây điều quan trọng không phải là một bài
học xã hội, nhưng là một mạc khải về
Nước Trời. Vậy chúng ta hãy coi chừng.
Sau khi đã thỏa
thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền,
ông sai họ vào vườn nho làm việc Khoảng giờ
thứ ba ông lại trở ra, thấy có những người
khác ở không, đang đứng ngoài chợ. Ông cũng
bảo họ: “Cả các anh nữa, hãy đi vào
vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công
bằng. Họ liền đi. Khoảng
giờ thứ sáu, rồi giờ thứ chín, ông lại
trở ra và cũng làm y như vậy. Khoảng giờ
mười một ông trở ra và thấy còn có những
người khác đang đứng đó, ông nói với
họ: “Sao các anh đứng đấy suốt ngày không làm
gì hết?”. Họ đáp: “Vì không ai
mướn chúng tôi”. Ông bảo họ: “Cả các anh nữa
hãy đi vào vườn nho!”
Nếu tính ra giờ
hôm nay ông chủ đi ra tìm thợ từ sáng sớm,
rồi lúc 9 giờ sáng lúc giữa trưa, lúc 3 giờ và lúc
5 giờ chiều. Vì thế chúng ta phải đoán ra rằng
đây không phải là một ông chủ bình thường:
không ai lại đi thuê thợ làm vườn trước
lúc nghỉ việc chỉ có một giờ! Đây là
một “ông chủ” quan tâm sâu sắc đến bi kịch
của những kẻ thất nghiệp ấy: “Tại sao
các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết?”. Câu chuyện mà Đức
Giêsu kể lại nhắc chúng ta rằng vấn đề
thất nghiệp trầm trọng, than ôi, không chỉ là
vấn đề của ngày hôm nay. Và nếu chúng ta
dừng lại ở phần đầu của dụ ngôn
này không để cho các thiên biến của ý thức
hệ chi phối, thì chúng ta thấy Đức Giêsu mô tả
một người đã nhân từ một cách tuyệt
vời rồi: năm lần trong một ngày, ông không
mệt mỏi, lo lắng đem lại việc làm,
đồng lương, nhân phẩm, cho những
người nghèo bị rơi vào cảnh khốn cùng.
Chúng ta không quên ghi
nhận điệp khúc được nhắc lại: “Hãy
đi vào vườn nho” trong toàn bộ Cựu
Ước, và do đó đối với các thính giả
đầu tiên của Đức Giêsu, vườn nho là
biểu tượng của “Dân Thiên Chúa” (Is 5,1-7; Gr 2,21; Ed
17,6; Hs 10,1; Tv 78, 9-16). Theo nghĩa này,
vườn nho là nơi hạnh phúc, nơi Giao ước
với Thiên Chúa, nơi mà Thiên Chúa không ngừng mời
gọi chúng ta bước vào. “Hãy đi vào vườn
nho của tôi... Hãy vào mà hưởng niềm
vui của chủ anh!” (x. Mt 25, 21-23).
Chiều đến,
ông chủ vườn nho bảo người quản lý:
“Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ bắt
đầu từ những người vào làm sau chót tới
những người vào làm trước
nhất”.
Nói theo
kiểu của con người thì chỉ bắt
đầu từ lúc này trở đi, câu chuyện xem ra
không có thật. Đây là dấu chỉ chúng ta
phải đến gần “cao điểm” của dụ
ngôn. Một cách rõ ràng hơn, ông chủ rất kỳ
lạ này muốn rằng những người có công
nhiều nhất với vườn nho phải làm chứng
nhân cho điều mà ông sắp làm cho những người
vào sau hết: họ sẽ chứng kiến việc ông
chủ trả lương cho những người khác. Tại sao? Sẽ rất đơn giản
nếu như ông chủ trả công cho người làm
nhiều trước và để họ ra về trước.
Vậy những
người mới vào làm lúc giờ mười một (5
giờ chiều) tiến lại, và lãnh được
mỗi người một quan tiền. Khi
đến lượt những người vào làm
trước nhất, họ tưởng sẽ
được lãnh nhiều hơn, thế nhưng cũng
chỉ lãnh được mỗi người một quan
tiền. Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia
chủ: “Mấy người sau chót này chỉ làm có một
giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng
tôi là những người phải làm việc nặng
nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu
đốt!”
Bản văn Hy
Lạp dùng một chữ có nghĩa chính xác: “họ lẩm
bẩm”. Đó là từ ngữ trong Kinh Thánh nói về
những tiếng lẩm bẩm, cằn nhằn của dân
Israel trong sa mạc (Xh 16,9; Tv l06,25), nó
diễn tả thái độ rất thường gặp
của chúng ta khi chúng ta không hiểu những thử thách
đang ập xuống chúng ta; khi chúng ta phải làm việc
nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi
thiêu đốt; khi chúng ta lên án Thiên Chúa. Những kẻ
lẩm bẩm, cằn nhằn ấy trong dụ ngôn này vào
thời Đức Giêsu, rõ ràng là các kinh sư và biệt phái
Họ không ngừng
lẩm bẩm chống lại Đức Giêsu khi
Người tiếp đón những “kẻ thu thuế,
kẻ tội lỗi và gái điếm”. Vào thời của
Matthêu, những người “sau cùng” được
đặt ngang hàng với những người
“đầu tiên”, đó là những dân ngoại
được đưa vào trong Giáo hội ngang hàng
với những người Do Thái bản địa. Ngày nay cũng thế, chúng ta còn nghe Đức
Giêsu nói lại với chúng ta một cách mạnh mẽ
rằng với Thiên Chúa, không có những người
được ưu đãi, có đặc quyền. Những “người thợ của giờ sau
cùng” được đối xử bình đẳng
với những người đầu tiên hưởng
nhờ vườn nho của Thiên Chúa. Trong Tin
Mừng, Đức Giêsu thường đề cao giá
trị của những người nghèo, những kẻ
bị loại trừ, những người sau hết,
những người tội lỗi! Đối với
những người cảm thấy khó chịu, lẩm
bẩm, Đức Giêsu nói rằng đó chính là thái
độ của Thiên Chúa “giàu lòng thương xót” ‘dives in
miséricordia’ theo một tước hiệu đẹp
của một Thông điệp của Đức Gioan Phaolô
II.
Ông chủ trả
lời cho một người trong bọn họ: Này
bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi
là một quan tiền sao? Cầm lấy
phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi
muốn cho người vào làm sau chót này cũng
được bằng bạn. Chẳng
lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định
đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì
thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?”
Không, chúng ta không còn
ở trong một hoàn cảnh bình thường để
rút ra những nguyên tắc về công bình xã hội chúng ta
lắng nghe một ‘mạc khải thần học về
những thái độ của Thiên Chúa’. Đây là một chân
dung tuyệt vời mà Đức Giêsu vẽ lại Cha
Người cho chúng ta:
Một Thiên Chúa yêu
mến mọi người, đặc biệt những
người bị bỏ rơi, và muốn đưa
họ vào “Vườn nho” của Người, trong hạnh
phúc của Người.
Một Thiên Chúa tuôn
đổ những ân huệ một cách dồi dào,
Người “mời mọc” và “kêu gọi” mọi lúc,
mọi tuổi, trong mọi hoàn cảnh.
Một Thiên Chúa mà
lòng “nhân từ” không bị giới hạn bởi công nghiệp
của chúng ta, và Người cho chúng ta nhiều hơn cái
mà chúng ta có được bởi những nỗ lực
của riêng mình. Một Thiên Chúa gạt bỏ
người nào cho rằng mình đặc quyền và
ngăn cản người khác được hưởng
những quyền lợi ấy.
Như thế Tin
Mừng hôm nay công bố với chúng ta một chân lý chủ
yếu của đức tin chúng ta mà Thánh Phaolô đã
triển khai rộng ra trong các thư Rôma
và Galát: “Tất cả những ai tin đều
được như thế… Thật vậy, mọi
người đã phạm tội và bị tước
mất vinh quang Thiên Chúa, nhưng họ được
trở nên công chính do ân huệ Thiên Chúa
ban không. Vậy thì hãnh diện ở chỗ
nào? Chẳng còn gì để hãnh diện... Thật
vậy, chúng tôi nghĩ rằng: người ta
được nên công chính vì tin, chứ không phải vì làm
những gì luật dạy (Rm 3, 22-31).
“Hay vì thấy tôi
tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức?”
Dụ ngôn này
phải đem lại một niềm hy vọng lớn lao cho biết bao bậc cha mẹ hôm nay nhìn
thấy con cái họ từ bỏ đức tin. Đối với Thiên Chúa, không có gì mất đi
mãi mãi, Người còn đi ra thuê thợ cho đến phút
chót. Không bao giờ Người
đến quá muộn. Vả lại,
chúng ta, hãy nhớ rằng Đức Giêsu không chỉ
bằng lòng với việc “kể lại” câu chuyện này.
Người còn áp dụng câu chuyện này vào cuộc
sống khi ban Thiên đàng vào giây phút chót cho người
trộm bị đóng đinh với Người.
Thế là những
kẻ đứng chót sẽ được lên hàng
đầu còn những kẻ đứng đầu sẽ
phải xuống hàng chót.
Thay vì giữ
chặt chúng ta trên vẻ bề ngoài bất công, giờ
đây chúng ta được mời gọi hãy vui mừng
chỉ vì lòng nhân từ tuyệt vời của Cha chúng ta. “Anh
em hãy có lòng thương xót như Cha anh em trên trời là
Đấng xót thương”. Từ
vài thập kỷ, yêu sách về sự công bình hay công lý trên
thế giới đã có nhiều tiến bộ. Dĩ nhiên là không có vấn đề quay lại
đàng sau. Nhưng việc thế
giới tiến bộ về hướng tình yêu
thương và tấm lòng há chẳng cần thiết sao?
Đó là một chủ đề mà Đức Giáo Hoàng
diễn tả trong một thông điệp của ngài:
“Trong thế giới
hiện đại, ý thức về công lý trên bình diện
rộng đã trỗi dậy... và Giáo Hội chia sẻ
với nhân loại ở thời đại chúng ta ước
muốn mãnh hệt, sâu xa và một đời sống công
bằng ở mọi phương tiện. Tuy
nhiên, người ta dễ dàng nhận ra những
chương trình xây dựng trên ý tướng công bằng
khi đem ra thực hiện nhiều khi phải chịu
sự biến dạng... bởi lòng oán hận, thù
nghịch mà cả sự tàn ác. Kinh nghiệm của
quá khứ và của thời đại chúng ta chứng
tỏ chỉ có công lý mà thôi không đủ, nếu
người ta không cho phép một sức mạnh sâu xa
hơn là tình yêu thương xây dựng đời sống
con người.
Thế thì, chúng ta được
trả về với sự chiêm ngắm lòng thương
xót của Thiên Chúa: “Lòng nhân hậu là một sức
mạnh đặc biệt của tình yêu còn mạnh hơn
tội lỗi và sự bất trung. Trong một nghĩa nào
đó, lòng nhân hậu ở vị trí đối lập
với công lý của Người, và trong nhiều
trường hợp tỏ ra mạnh hơn, căn bản
hơn công lý” (Gioan Phaolô II).
|