DỤ NGÔN THỢ LÀM VƯỜN NHO --- Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện
Đà Lạt
CHÚ GIẢI CHI
TIẾT
“Về Nước
Trời thì cũng in như một gia chủ”: Bây giờ ta đã
quen với loại công thức này rồi. Thực
vậy, Nước Trời không giống như gia chủ,
nhưng giống như toàn thể câu chuyện trong đó
gia chủ đóng vai trò chính.
“Sau khi đã
thuận giá với thợ là một quan tiền”: Quan tiền
tương đương với một phật lăng vàng và lượng trưng tiền
công bình thường của một ngày làm việc thời
Chúa Giêsu. Việc ghi nhận hợp đồng tiên
quyết giữa chủ và thợ đây sẽ thấy là
quan trọng vào cuối dụ ngôn: khi chỉ nhận
một quan tiền, toán thợ đầu tiên không hề
bị thiệt thòi gì cả, vì đó là tiền lương
đã thỏa thuận với nhau.
“Giờ thứ ba,
ông ra.. “: Dù theo qui định, một ngày
bắt đầu từ lúc hoàng hôn (xem “việc thánh hóa
hưu nhật” bắt đầu từ chiều thứ
6), người ta vẫn chỉ tính giờ kể từ
lúc mặt trời mọc. Như thế giờ thứ 3,
thứ 6, thứ 9 và thứ 11 tương ứng với 9
giờ, 12 giờ trưa, 15 giờ và 17 giờ; ngày làm
việc chấm dứt lối 18 giờ.
“Tôi sẽ tính
phải chăng cho các anh”: Qua câu nói đó, các người thợ
sau phải hiểu rằng tiền công của họ
sẽ là một phần quan tiền.
“Khởi từ
cuối hết cho đến đầu hết”: Đây là một
việc dị thường đối với tập
tục đương thời, nhưng trình thuật
cố ý kết cấu như vậy để làm cho ra
vẻ thực các lời kêu trách của những
người thợ chứng kiến lòng tốt lạ lùng
của gia chủ đối với những kẻ lãnh
đầu tiên.
“Đã vác nặng
cả một ngày trường, với nắng nôi thiêu cháy”: Theo toán thợ
giờ thứ nhất, họ đã bị thiệt thòi
trong hai chuyện: vất vả suốt 12 giờ, trong lúc
các kẻ khác chỉ làm việc có một tiếng, và
hơn nữa đã phải hái nho dưới cơn gió nóng
cháy trong lúc những kẻ đến sau lại
được hưởng khí trời mát mẻ ban
chiều. Thời hạn và điều
kiện làm việc khó khăn cho họ quyền
được trả lương cao hơn.
“Này bạn”: Toán thợ giờ thứ
nhất đã chẳng xưng hô với gia chủ bằng
tên hay tước hiệu của ông, và đây ông ta làm cho
họ hổ ngươi khi bắt đầu câu trả
lời của mình như thế (x. Lc 15, 31). Người ta
vẫn thường dùng lối gọi này lúc nói với
kẻ không biết tên; ở đây nó vừa đầy
nhân hậu vừa đầy trách móc: “bồ ơi...”. Trong 3 đoạn Tân ước có lối
gọi này (Mt 20,13; 22,12; 26, 50), kẻ mà
người ta nói với là kẻ có phạm lỗi gì
đó.
“Hay bạn ghen
tương (Nguyễn Thế Thuấn: hay mắt bạn
lườm nguýt) vì tôi tốt lành”: Câu này là
kết luận thật sự của dụ ngôn, như ta
sẽ thấy dưới đây, do đó phải nặc
cho nó tất cả tầm quan trọng. Quả
thế, thường thì câu kết luận của dụ
ngôn là chìa khóa để hiểu dụ ngôn. Chữ
“ghen tương”, nếu dịch cho sát sẽ là: “mắt ác
cảm”, “mắt dữ tợn”, một thành ngữ cổ
xưa của Kinh Thánh thường xuất hiện trong
Châm ngôn và Huấn ca, để diễn tả, như ở
đây, cơn tức giận và ghen tương của
cả con người. Nếu đặt thành ngữ
“mắt dữ tợn” vào lại trong nguyên bản, thì
sự tương phản giữa các hạn từ mới
nổi bật, và bài học của dụ ngôn trở nên rõ
ràng hơn: “Hay mắt bạn dữ lợn vì tôi tốt
lành?”. Cách cư xử của gia chủ
chẳng phải là hậu quả của một tính khí
chướng kỳ, một bất công hữu ý, nhưng
chỉ là kết quả của tâm địa tốt lành
nơi ông: chính đó mới quan trọng. ông
không muốn gây thiệt hại cho người này, ông
chỉ muốn làm điều thiện cho người kia.
“Thế đó,
những kẻ cuối hết sẽ nên đầu
hết, và kẻ đầu hết sẽ nên cuối
hết”. Vài tác giả xem châm ngôn này như một phần
tất yếu hay hơn nữa, như mộ phần
chủ yếu của dụ ngôn. Nghĩ như thế
tất nhiên buộc lòng phải ép lối giải thích
dụ ngôn sao cho ăn khớp với câu
kết luận đó. Thánh Gioan Kim Khẩu đã tỏ ra
sáng suốt hơn khi tuyên bố trong bài giảng thứ 64
của ngài: “Chúa Giêsu không diễn dịch châm ngôn này từ
dụ ngôn đâu. Những người
đầu tiên chẳng trở thành kẻ cuối hết;
trái lại tất cả đều được
thướng như nhau” (PG 58,614). Khiếu chú giải
của ngài đã chỉ cho ngài giải pháp đích thực:
châm ngôn không phát xuất từ dụ ngôn, nhưng đã
được thêm vào do loại suy mà thôi.
Thực
vậy, nếu thử liên kết câu tục ngữ với
dụ ngôn mà nó được coi như là lại giải
thích.
Ta thất ngay rằng câu tục ngữ không thể nào phát
xuất từ dụ ngôn, và cả hai chẳng có thể
đi không với nhau được. Theo châm
ngôn, thì các kẻ cam kết phải thực sự nên
đầu hết và những kẻ đầu hết
phải trở nên rốt cùng. Thánh Gioan
Kim Khẩu ghi nhận một cách chí lý là bản văn
hiện thời không thỏa mãn hai yêu sách ấy. Cùng
lắm và theo một nghĩa nào đó, ta
có thể chấp nhận rằng các người cuối
hết đã nên đầu hết vì họ là những
kẻ đầu tiên được gọi đến
nhận tiền lương. Nhưng việc
xếp hạng này chỉ có tính cách bề ngoài. Kỳ thực, tất cả đám thợ, lãnh
cùng một phần thướng, đều ngang hàng như
nhau. Đối với họ, chỉ có
tiền mới đáng kể. Trẻ em có thể
hưởng lợi lộc hơn khi được kêu
đầu, nhưng người lớn lại xem việc
trả lương trước hay sau cũng chả ăn thua. Vì thế, nếu dụ ngôn xem ra
biện minh cho câu tục ngữ, thì đó chỉ là bề
ngoài và theo lối chơi chữ mà thôi,
chứ thực tế không phải vậy. Tục
ngữ nói đến sự đảo ngược vị
trí, còn dụ ngôn lại nói về việc đối
xử đồng đều.
Chính bản văn giúp
ta xác quyết lối giải thích vừa nêu. Các
người thợ đầu tiên, khi tỏ ra ghen
tương về quyền lợi đến độ
căm tức, đã phàn nàn về chuyện gì? Về việc lãnh lương sau cùng ư? hay về chuyện bị đẩy lui vào
hàng cuối? Chắc chắn là không! Chẳng
thay họ phàn nàn, chống đối gì điểm này.
Xin nói lại điều đó không ăn
thua gì với họ cả; họ chỉ cần
được trả lương đầy đủ,
còn trước hay sau đôi chút không quan trọng. Họ
phàn nàn ở chỗ là: dù đã lao công
nhiều hơn kẻ khác, họ vẫn lãnh cùng một
đồng lương như những kẻ đến làm
việc sau cùng.
Trước
giọng phàn nàn ấy, gia chủ đã đưa ra câu
trả lời duy nhất thích hợp: “Này bạn, tôi
đâu xử bất công với bạn, bạn đã
chẳng thuận giá một quan với tôi sao? Bạn hãy lấy phần bạn mà đi. Còn việc cho người cuối hết này
bằng bạn, tôi muốn thế. Há tôi lại không
được phép làm như tôi muốn về của
cải tôi sao?”. Tất
cả ý nghĩa của dụ ngôn đều nằm nơi
câu nói ấy của ông chủ vườn nho. Thế mà trong đó chẳng có vấn đề
ngôi thứ, mà chỉ là sự bình đẳng trong
đồng lương. Các chữ dứt khoát
thật rõ ràng: “Này bạn, tôi đâu xử bất công
với bạn...Việc cho người cuối hết này
bằng bạn, tôi muốn thế... Há tôi
lại không được phép.... sao?”
Thành thử dụ
ngôn không ăn khớp với câu châm ngôn
cuối cùng. Câu này chẳng có tương quan
nào khác với dụ ngôn ngoài một tương tự
(loại suy) có tính cách ngôn từ về đề tài mà thôi.
Đó là một câu kết luận bề ngoài.
Như trong nhiều trường hợp tương
tự, kết luận bề ngoài này hẳn đã
được thêm vào câu chuyện, có lẽ do chính Chúa
Giêsu, hoặc do chính tác giả Tin Mừng hay do truyền khẩu
bằng cách vay mượn câu nói đó ở một văn
mạch khác. Dù sao, các câu kết luận bề ngoài phải
được giải thích dưới ánh sáng dụ ngôn
(chứ không ngược lại?), nhưng với sự
tự do uyển chuyển phù hợp với một
loại văn thể như thể. Vì đã
được gắn vào phần cuối câu chuyện (19,
16), nên có lẽ câu kết luận đó cũng
được ghi lại ở đầu (19, 30)
để làm khung văn chương cho dụ ngôn và
để thay thế cho câu nhập đề lịch
sử.
KẾT LUẬN
Mối liên hệ
giữa con người và Thiên Chúa thuộc bình diện ân
sủng. Đó là đối tượng đích thực, là
giáo huấn căn bản của dụ ngôn. Thật
vậy, dụ ngôn đưa ra một mặc khải
chủ yếu về Thiên Chúa và cách Ngài nhìn xem sự
vật, hay như dụ ngôn người mắc nợ
bất nhân (18, 23-33). Trong lúc đó, các giáo sĩ
thường tính toán phần thưởng mà người ta
có quyền lãnh nhận, xác định phần
thưởng mà Thiên Chúa ban cho mỗi việc lành. Cách quan niệm sự vật này hoàn toàn bị
dụ ngôn đạp đổ. Ta còn có thể hy
vọng gì khi phần thưởng tương ứng
với công nghiệp của ta? Trái lại,
nếu ta chờ đợi tất cả từ lòng
tốt của Thiên Chúa và không nại tí gì vào sự công
bằng của Ngài, thì đó chẳng phải là niềm hy
vọng của ta sao?
Ý HƯỚNG BÀI
GIẢNG
1) Ta không thể
dựa vào trình thuật này để kết luận
rằng Thiên Chúa chẳng ân thưởng cho mỗi
người tùy theo công việc của
họ. Như thế sẽ đi
ngược với Thánh Kinh. Nhưng đúng hơn
phải kết luận rằng: ngay cả lúc Thiên Chúa ân
thưởng mỗi người tùy theo
công việc của họ, Ngài cũng chỉ làm vì lòng
tốt chứ không vì bất cứ một sự công bình
giao hoán nào cả. Mỗi liên hệ của ta với Thiên
Chúa chẳng phải là một cái gì khả dĩ đo
lường được cũng như giản
lược được vào thứ ngôn ngữ công
bằng. Hai cái đều là ân sủng.
2) Đó là một
sự thật trước tiên có tính cách hạ con
người xuống vì nó bảo với con người
rằng: ngươi không phải là kẻ có thể
thực sự nói tay đôi với Thiên Chúa vĩnh cửu,
nhân danh quyền lợi mà ngươi đã chiếm
hữu nhờ sức mạnh của riêng ngươi, không
phải là kẻ có thể tính sổ với Ngài được.
Vì theo sự thật đó, tất
cả đều được bao phí bởi lòng nhân ái
tự do của Thiên Chúa, bởi những ý định khôn
dò của Ngài. Nhưng đối với chúng ta, đó
cũng là một sự thật đầy an
ủi phấn khích, một sự thật giải phóng ta
khỏi một gách vô cùng nặng nề. Vì
nếu ta đòi tính sổ với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa
cũng sẽ đòi tính sổ với ta, và bấy giờ
chắc chắn ta là kẻ thiệt thòi. Tốt
nhất là phó mặc tất cả vào lòng nhân ái của Thiên
Chúa! Vì nếu như vậy, thì dù bắt đầu
phục vụ Thiên Chúa sớm hay muộn, dù khi có cảm
tưởng như Giáo Hội đòi hỏi nhiều ở
ta, ta vẫn có thể luôn luôn an tâm và nói: Chúa là Thiên Chúa
của mọi niềm an ủi và từ bi, Chúa là Thiên Chúa
thi ân và trả cho mỗi người một quan tiền mà
bản thân họ không thể tự sức mình làm ra
được, Chúa là Thiên Chúa ân thưởng chúng con, ngay
cả lúc chúng con thực sự chỉ là những tôi
tớ mọn hèn và tội nhân nghèo khó.
3) Ta không
được phẫn uất nếu, ngay từ
đời này, ta nhận thấy những kẻ là la coi
như là những đại tội nhân (nhưng ta có
được quyền phê phán giá trị thiêng liêng của
họ không?) được mạnh khoẻ, thông minh
hơn, giàu có hơn ta v.v... Thiên Chúa ban ơn cho những ai
Ngài muốn. Ngài thích tỏ ra nhân hậu ngay
cả đối với những kẻ vô ơn với
Ngài.
4)
Chỉ Thiên Chúa mới có thể hoàn toàn yêu thương, tha
thứ con người, yêu thương trên hết mọi
sự và như thế làm đảo lộn mọi tính toán
đê tiện của con người. Ngài là Đấng
yêu thương một cách sung sướng vì Ngài chẳng
để ý đến các công nghiệp nhỏ bé của ta
cho bằng đến tình yêu bao la của Ngài.
5) Nếu nhìn kỹ
hơn thì những kẻ được ưu đãi
thực sự trong dụ ngôn có lẽ là những
người thợ giờ thứ nhất. Dĩ
nhiên, họ đã “vác nặng cả một ngày
thường với nắng nôi thiêu cháy”, song chủ đã
làm họ khỏi nỗi sợ thất nghiệp, khỏi
mối lo về cơm bánh là những thứ hẳn
từng dày vò các người khác, những kẻ mà buổi
chiều mới được mướn làm công.
Cũng vậy các tín hữu đã anh dũng trung thành
với đức tin suốt đời là những
người được ưu đãi so với những
kẻ chỉ đến với Chúa vào cuối cuộc
sống, những kẻ có lẽ chưa bao giờ kinh
nghiêm được sự bình thản nội tâm, kinh
nghiệm được niềm vui và sự an lòng vì
biết mình ở trong tay Thiên Chúa.
|