HIỆP SỐNG TIN
MỪNG
CHÚA NHẬT 25 THƯỜNG
NIÊN A
Is 55,6-9 ; Pl 1,20c-24.27a ; Mt
20,1-16a
ỨNG XỬ NHÂN ÁI BAO DUNG NOI
GƯƠNG THIÊN CHÚA
I.
HỌC LỜI CHÚA
1. TIN
MỪNG: Mt 20,1-16a
(1) Nước
Trời giống như chuyện gia chủ kia,
vừa tảng sáng đã ra mướn
thợ vào làm việc trong vuờn nho
nhà mình. (2) Sau khi đã thỏa thuận
với thợ là mỗi ngày một quan
tiền, ông sai họ vào vườn nho làm
việc. (3) Khoảng giờ thứ ba, ông lại
trở ra, thấy có những người
khác ở không, đang đứng ngoài
chợ. (4) Ông cũng bảo họ: “Cả các anh
nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi
sẽ trả cho các anh hợp lẽ công
bằng” (5) Họ liền đi. Khoảng giờ
thứ sáu, rồi giờ thứ chín,
ông lại trở ra và cũng làm y như
vậy”. (6) Khoảng giờ mười một, ông
trở ra và thấy còn có những
người khác đứng đó, ông
nói với họ: “Sao các anh đứng
đây suốt ngày không làm gì hết? “ (7)
Họ đáp: “Vì không ai mướn chúng
tôi”. Ông bảo họ: “Cả các anh nữa, hãy
đi vào vườn nho !”. (8) Chiều đến,
ông chủ vườn nho bảo người
quản lý: “Anh gọi thợ lại mà trả
công cho họ, bắt đầu từ những
người vào làm sau chót cho tới
những người vào làm
trước nhất”. (9) Vậy những
người mới vào làm lúc
giờ mười một tiến lại, và
lãnh được mỗi người một
quan tiền. (10) Khi đến lượt những
người vào làm trước nhất,
họ tưởng sẽ được lãnh
nhiều hơn. Thế nhưng cũng chỉ
được lãnh một người một
quan tiền. (11) Họ vừa lãnh vừa
cằn nhằn gia chủ: (12)“Mấy
người sau chót này chỉ làm có
một giờ. Thế mà ông lại coi họ ngang
hàng với chúng tôi là những người
phải làm việc nặng nhọc cả ngày,
lại còn bị nắng nôi thiêu đốt”. (13)
Ông chủ trả lời cho một người
trong bọn họ: “Này bạn, tôi đâu có
đối xử bất công với bạn. Bạn
đã chẳng thỏa thuận với tôi
là một quan tiền hay sao ? (14) Cầm lấy
phần của bạn mà đi. Còn tôi, tôi muốn
cho người vào làm sau chót này
cũng được bằng bạn đó.
(15) Chẳng lẽ tôi lại không có quyền
tùy ý định đoạt về những
gì là của tôi sao ? Hay vì thấy tôi tốt
bung, mà bạn đâm ra ghen tức ? (16a) Thế
là những kẻ đứng chót sẽ
được lên hàng đầu. Còn
những kẻ đứng đầu sẽ phải
xuống hàng chót.
2. Ý
CHÍNH: DỤ NGÔN THỢ LÀM VƯỜN NHO
Bài
Tin Mừng hôm nay ví Nước Trời
Đức Giê-su thiết lập giống như câu
chuyện một ông chủ vườn nho đi kêu
người làm vườn nho cho mình.
Có 4 tốp người được kêu
làm vào 4 thời điểm khác nhau trong
ngày: giờ thứ nhất, giờ
thứ ba, giờ thứ sáu, và cả
giờ thứ mười một. Khi trả
lương, chủ vườn lại trả
lương từ người làm giờ
thứ mười một tới
người làm từ giờ thứ
nhất. Mỗi người đều
được trả lương bằng nhau
là một quan tiền. Khi có người
thắc mắc ông chủ đã cho biết ông
không bất công khi trả lương sòng phẳng
theo thỏa thuận ban đầu là một
đồng. Còn việc ông trả cho người
sau bằng người đầu là do lòng
nhân hậu của ông. Cũng vậy, sau này Thiên
Chúa sẽ ban ơn cứu độ cho mọi
người gia nhập vào Nước
Trời là Hội Thánh. Dù là dân
ngoại vào trễ hay dân Do Thái vào từ
ban đầu, đều được
hưởng ơn cứu độ như nhau,
miễn có đức tin là đủ.
3.
CHÚ THÍCH:
- C 1-2: + Nước Trời
giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng
sáng đã ra mướn thợ vào
làm việc: Bên Do
Thái vào mùa hái nho, ngay từ sáng
sớm, các chủ vườn thường
ra ngã ba đường hay ra chợ
người để thuê người đi
làm công cho mình. Chủ vườn nho
tượng trưng Thiên Chúa muốn mời
gọi tất cả mọi dân tộc đều
được đi làm vườn nho
tức là được gia nhập vào
Nước Trời là Hội Thánh. +
thỏa thuận với thợ là mỗi
ngày một quan tiền: Vào thời
Đức Giê-su, chủ vườn nho
thường trả lương công nhật cho
thợ làm vườn là một quan
tiền. Ở đây ông chủ đã hứa
trả lương công nhật là một quan tiền
ngay từ khi thuê họ vào làm việc.
- C 3-7: + Giờ thứ ba: Thời bấy giờ
thời gian một ngày được tính
từ lúc mặt trời lặn. Vì
thế luật qui đình ngày Sa-bát bắt
đầu từ 18g00 chiều thứ sáu.
Nhưng khi tính giờ, người Do Thái
lại tính từ lúc mặt trời
mọc vào buổi sáng. Thời gian từ
mặt trời mọc đến mặt
trời lặn được chia làm 12
giờ. Vậy giờ thứ nhất,
thứ ba, thứ sáu, thứ chín và
thứ mười một tương
đương với 6 giờ, 9 giờ, 15
giờ và 17 giờ như ngày nay.
Giờ lao động của người Do
thái mỗi ngày bắt đầu từ 6
giờ sáng và kết thúc vào lúc 18
giờ chiều. + Ông chủ vườn
mời người đi làm vườn
nho: Thiên Chúa muốn cho mọi người
đều được ơn cưu độ,
và người ta có thể được
gia nhập vào Nước Trời là
Hội Thánh trong nhiều thời điểm
khác nhau. + Tôi sẽ trả công cho các anh hợp lẽ
công bằng: Trả lương công bằng,
nghĩa là người làm thuê sẽ không
bị thiệt thòi về tiền công. + Khoảng giờ
thứ sáu rồi giờ thứ chín,
ông lại ra và cũng làm y như vậy:
Ông chủ nôn nóng đi kêu thợ làm trong
nhiều thời điểm khác nhau trong ngày
mà không tính toán thiệt hơn, cho thấy
lòng bao dung nhân hậu của Thiên Chúa.
Người không muốn cho kẻ có tội
phải chết, nhưng muốn họ ăn năn
sám hối để được sống. + Khoảng
giờ mười một: Giờ
thứ mười một tương
đương với 17 giờ chiều, là
giờ cuối trong ngày làm việc. Thợ
chỉ phải làm một tiếng nữa là
hết giờ lao động. + Vì không ai
mướn chúng tôi: Những
người này đứng không suốt
ngày do không được ai thuê mướn
cả. + Cả các anh nữa, hãy đi vào
vườn nho !: Ông chủ kêu thợ vào
làm vườn nho vào giờ cuối
cùng là do lòng thương muốn giúp
những người thất nghiệp, chứ
không do nhu cầu công việc đòi hỏi.
Điều này cho thấy ơn cứu độ
là một ơn ban không, hoàn toàn do tình
thương của Thiên Chúa, chứ không phải do
công khó của con người.
- C 8-10: + Anh gọi thợ lại
mà trả công cho họ, bắt đầu
từ những người vào làm sau
chót cho tới những người vào
làm trước nhất: Việc trả lương mang tính
cách khác thường vì bị đảo
lộn thứ tự trước sau và
vì số lương được trả
bằng nhau là một quan tiền cho các
người thợ làm việc nhiều ít
khác nhau. Khi sắp xếp việc trả
lương như vậy, ông chủ muốn tạo cho
người làm việc từ sáng
sớm tưởng rằng mình sẽ
được trả nhiều hơn. Vì thế
họ đã thắc mắc khi
được lãnh một quan tiền bằng
với người vào làm vào từ
giờ thứ mười một. Điều
này cho thấy tình thương của Thiên Chúa
đối với hết mọi người.
Bất cứ ai dù là Do thái hay dân ngoại,
dù theo đạo từ khi mới sinh hay
trước khi chết, nếu thành tâm tin yêu Thiên
Chúa thì đều được
Người cho hưởng hồng ân cứu
độ.
- C 11-13: + Họ vừa lãnh
vừa cằn nhằn gia chủ: Họ trách móc ông chủ hai
điều: Một là họ phải làm việc
vất vả suốt từ sáng sớm
đến chiều tối, đang khi những
người làm vào giờ thứ
mười một chỉ phải làm có
một giờ. Hai là họ phải chịu
sự nắng nôi khó nhọc, đang khi
những người làm sau vào lúc ban
chiều không chịu sự nắng gắt nóng
bức. Họ muốn được chủ
trả lương cao hơn những người
vào làm việc sau. + Này bạn: Đây
là kiểu xưng hô của ông chủ với
những người thợ chưa rõ tên.
Kiểu xưng hô này vừa khoan dung vừa
trách móc nhẹ nhàng để mong họ
nghĩ lại. Giống như Đức Giê-su
đã nói với Giu-đa khi anh ta dẫn dân
quân Đền thờ đến bắt Người trong
vườn Ghết-sê-ma-ni (x. Mt 26,50). + Tôi đâu có
xứ bất công với bạn ?: Việc
trả lương một quan tiền cho những
người thợ đến sau không gây thiệt
hại gì cho những người làm
trước. Những người làm
từ giờ thứ nhất đã nhận
đủ một quan tiền, theo đúng thỏa thuận
trước lúc vào làm việc.
- C
14-16b: + Chẳng lẽ tôi
lại không có quyền tùy ý định
đoạt: Việc
trả lương cho người đến làm
sau cũng được một quan tiền là do
lòng tốt của ông chủ, chứ không phải
do công lao của họ. Qua đó Đức Giê-su
muốn dạy: Dân Do thái đừng ganh tị với
lương dân khi Thiên Chúa cũng ban cho lương dân
được thừa hưởng lời
hứa cứu độ như họ. Người
tín hữu đạo đức cũng
đừng ganh tị với các tội nhân hay
người lương khi thấy Chúa đối
xử nhân từ với những
người này khi họ được ơn gia
nhập đạo vào giờ phút cuối
cuộc đời. + Hay vì thấy tôi tốt
bụng mà bạn đâm ra ghen tức: Ông
chủ vạch rõ tâm địa ganh ghét xấu xa
của nhóm thợ làm sáng sớm.
Họ không muốn người làm sau
được trả lương bằng hay
hơn họ. Đức Giê-su muốn chúng ta
hãy đón nhận lòng nhân hậu của Thiên
Chúa chứ đừng suy nghĩ theo kiểu
loài người mà phê phán công việc
của Người. + Thế là những
kẻ đứng chót sẽ được lên
hàng đầu. Còn những kẻ
đứng đầu sẽ phải xuống hàng
chót: Theo Thánh Gio-an Kim Ngôn thì câu này
không bắt nguồn trực tiếp từ
dụ ngôn, cũng như không phải là câu tóm
kết bài học của dụ ngôn. Nó
được thêm vào, vì có một sự
tương tự nào đó xét theo câu
chuyện. Câu này nói đến sự
đảo lộn về việc phát lương
trước sau, đang khi trọng tâm của dụ
ngôn nhấn mạnh đến việc trả lương
đồng đều giữa những
người thợ làm trong thời gian dài
ngắn khác nhau. Có lẽ tác giả khi
viết thêm câu này chỉ nhằm đóng khung
dụ ngôn mà thôi.
4. CÂU
HỎI:
1) Ông chủ vườn
nho trong dụ ngôn ám chỉ ai ? Việc ông chủ
vườn nho đi kêu mời người
đi làm vườn nho cho ông trong nhiều thời
điểm khác nhau có ý nghĩa gì ? 2)
Người Do thái thời xưa tính
ngày mới bắt đầu từ khi
nào ? Mỗi ngày có bao nhiêu giờ lao
động và thời giờ ấy
tương đương với giờ hiện
nay ra sao ? Giờ thứ mười một
hiện nay là mấy giờ chiều ? 3) Ông chủ
hứa trả lương công nhật là bao nhiêu
và hứa trả lương hợp lẽ công
bằng nghĩa là gì ? 4) Việc ông chủ
đi kêu thợ làm vườn nho vào
nhiều thời điểm khác nhau trong ngày,
nhất là vào giờ thứ
mười một cho thấy ông là
người thế nào ? 5) Việc trả
lương thợ của ông chủ vườn nho
khác thường ở điềm nào ?
Điều này nhằm nói lên điều
gì về tình thương cứu độ
của Thiên Chúa đối với loài
người chúng ta ? 6) Những
người làm từ giờ thứ
nhất trách móc ông chủ những gì ? 7)
Qua câu trả lời, ông chủ cho thấy việc ông
trả lương bằng nhau cho những
người làm trong thời gian nhiều ít
khác nhau có bất công như họ kêu trách không
? 8) Ông chủ phê phán thế nào về thái
độ của bọn thợ vào làm
vườn nho từ giờ đầu tiên ?
II.
SỐNG LỜI CHÚA
1.
LỜI CHÚA: Ông chủ trả lời cho một
người trong bọn họ: “Này bạn, tôi
đâu có xử bất công với bạn.
Bạn đã chẳng thỏa thuận với
tôi là một quan tiền hay sao ? Cầm lấy phần
của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho
người vào làm sau chót này cũng
được bằng bạn đó. Chẳng
lẽ tôi lại không có quyền tùy ý
định đoạt về những gì là
của tôi sao ? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà
bạn đâm ra ghen tức ?” (Mt 20,13-15).
2. CÂU
CHUYỆN:
1) MỘT
ÔNG VUA NHÂN TỪ VÀ QUẢNG ĐẠI :
Tại
nước Tây Ban Nha có một ông vua tên là
An-phong-sô rất nhân từ và quảng đại.
Ngài thường cải trang làm
thường dân vi hành đó đây để
tận mắt chứng kiến những nỗi
đau khổ và oan ức của nhân dân do bọn
quan lại địa phương gây ra, để kịp
thời sửa sai chấn chỉnh. Ngày nọ,
đức vua cải trang đến một tỉnh lẻ
và thuê một phòng trọ trong một nhà nghỉ
bình dân. Sáng hôm sau, nhà vua yêu cầu bồi
phòng mang đến cho ông một chiếc gương để
cạo râu. Khi đem chiếc gương cho vị
khách, anh bồi phòng thấy khuôn mặt ông
khách rất dễ mến, nên đã chủ
động bắt chuyện : “Này ông, tôi có
cảm tưởng ông không phải là loại
khách du lịch bình thường”. Nhà vua tò
mò muốn biết anh bồi phòng nghĩ gì
về mình, nên hỏi : “Sao anh lại nói như
vậy ?” Người bồi phòng trả
lời rằng : “Vì tác phong và vẻ
bề ngoài của ông có cái gì đó
khác với dân bình thường.
Chắc ông phải là người thuộc
triều đình nhà vua tại thủ đô Ma-trít (Madrid) cũng nên”. Nhà vua chỉ
đáp lại cách mập mờ : “Một
cách nào đó anh nói cũng đúng
đó !” Anh bồi phòng lại hỏi thêm :
“Vậy hẳn ông phải là một quan
chức luôn được hầu cận
đức vua ?” Nhà vua trả lời : “Anh
đoán thật chẳng sai chút nào”.
Người bồi phòng càng tò mò
hơn và hỏi tiếp : “Phục vụ
đức vua thì thông thường phải
làm những việc gì hả ông ?” Nhà vua mỉm
cười hóm hỉnh đáp : “Ồ, làm
nhiều việc lắm, đại loại như bây
giờ tôi sắp phải cạo râu cho ngài”.
Người
bồi phòng trong câu chuyện trên đã gặp
được chính đức vua và
được ngài hé mở cho biết phần
nào sự thật về ngài. Các câu
đối đáp giữa đức vua và
người bồi phòng cho thấy thái
độ nhân từ và khoan dung của ông chủ
vườn nho, tượng trưng cho Thiên Chúa
trong Tin Mừng hôm nay. Những người
đi làm sau ám chỉ dân ngoại và
những kẻ tội lỗi. Họ
được Thiên Chúa mời gia nhập
Hội Thánh vào giờ thứ
mười một, tức là theo Chúa
lúc cuối đời trước khi chết.
Đây cũng là trường hợp của
người trộm lành trên cây thập giá bên phải
Đức Giê-su. Ông ta nhờ lòng tin và
thành tâm sám hối, nên đã
được Người tha tội và
còn hứa ban hạnh phúc thiên đàng như
sau: “Tôi bảo thật anh : hôm nay, anh sẽ
được ở với tôi trên thiên
đàng” (x. Lc 23,42-43).
2) LẤY
NHÂN ÁI BAO DUNG ĐÁP LẠI LÒNG GANH TỴ HẬN THÙ :
Theo
sách Sa-mu-en, Đa-vít là vị anh hùng tài hoa trẻ tuổi
đã lập được chiến công oanh liệt, đã
cứu nguy cho dân quân Ít-ra-en bằng cách giao chiến
một-chọi-một với tên Gô-li-át khổng lồ
thuộc quân Phi-li-tinh, hạ gục y chỉ bằng
một phát bắn đá và dùng chính thanh gươm của y
mà chặt đầu y. Thế rồi quân Ít-ra-en thừa
thắng xông lên như nước vỡ bờ, tràn lên
giết hại rất nhiều quân Phi-li-tinh. "Khi
Đavít thắng trận trở về, phụ nữ
từ hết mọi thành của Ít-ra-en kéo ra, ca hát múa
nhảy, đón vua Đa-vít với trống con, với
tiếng reo mừng và tiếng não bạt. Họ ca hát như
sau : "Vua Sa-un giết được hàng ngàn, Đa-vít giết
hàng vạn".
Thế
là từ lúc ấy, lòng ghen tỵ sục sôi trong lòng vua
Sa-un, khiến nhà vua có lần phóng giáo vào Đavít khi anh đang
gảy đàn để phục vụ đức vua. May mà
Đa-vít đã kịp né tránh và đã thoát chết trong gang
tấc. Rồi sau đó, khi Đa-vít chạy trốn, vua Sa-un
đã đích truy đuổi, quyết hạ sát cho bằng
được Đa-vít để trừ hậu họa. Lần
kia Đa-vít đã có dịp ở ngay bên vua Sa-un trong một
cái hang tối, Đa-vít đã có thể giết chết Sa-un
để trả thù, nhưng ông chỉ cắt một
miếng giải áo của vua để chứng minh lòng
trung thành của mình mà thôi (Samuen I, ch 17-18).
3) ĐIỀU
ƯỚC TỆ HẠI CỦA MỘT KẺ GANH TỊ
THAM LAM:
Ở
Ấn Độ truyền tụng một câu chuyện vui như
sau: Trong triều đình có hai viên quan phục vụ cho nhà
vua được một thời gian lâu. Một ông có tính ganh
tị, còn ông kia lại có tính tham lam.
Để
sửa chữa tật xấu cho hai quan chức này, vua cho
triệu vời cả hai vào chầu. Nhà vua loan báo sẽ
thưởng công xứng đáng cho cả hai vì đã có công
phục vụ nhà vua nhiều năm qua. Vua hứa sẽ
ban thưởng cho họ bất cứ điều gì. Có
điều phần thưởng vua ban sẽ tùy ý muốn
của hai người: Ai mở miệng xin trước
sẽ được phần thưởng như ý của
mình, nhưng người kia lại được vua ban thưởng
cho gấp đôi người xin.
Sau
khi nghe vua phán, cả hai vị quan đều im lặng
để suy tính. Kẻ tham lam thì nghĩ : Nếu ta xin trước
thì sẽ chỉ nhận được một nửa so
với tên kia. Còn người ganh tị kia lại nghĩ :
Ta dại gì mà mở miệng xin trước để cho tên
kia được hưởng lợi gấp đôi ta.
Cứ như thế một lúc lâu vẫn chẳng thấy ai
trong hai viên quan mở miệng xin trước. Cuối cùng
nhà vua yêu cầu đích danh viên quan có tính ganh tị xin trước. Hắn đã
tìm ra cách xin có hại cho kẻ kia như sau : "Thần xin
đức vua ban cho thần bị chột một mắt".
Hắn xin như vậy để cho viên quan kia bị mù
cả hai mắt. Chính sự ganh tị đã làm cho hắn
không còn tình người. Câu chuyện cho thấy: Con người
ta do lòng ganh tị dễ sinh ra hờn oán nhau: Chỉ
một miếng ăn, một chén gạo. một món
lợi nhỏ cũng khiến họ ra tay để làm
hại kẻ khác ...
4)
SỐ PHẬN CỦA KẺ CÓ LÒNG GANH GHÉT THÙ HẬN TRONG
NGÀY PHÁN XÉT:
Trong
một vở kịch, nhà đạo diễn JEAN A-NOU-ILB đã
dàn dựng cảnh ngày phán xét chung theo trí tưởng
tượng của ông : Những kẻ lành đang
đứng thành hàng chen nhau để lần lượt
được thánh Phê-rô cho vào thiên đàng … Nhưng
rồi khi thấy bên hàng đối diện có nhiều
người tội lỗi trộm cướp đĩ
điếm cũng đang xếp hàng vào thiên đàng. Họ
nhìn nhau, không thể hiểu được tại sao Chúa
lại cho bọn người đầu trộm đuôi
cướp kia cũng được vào thiên đàng như
mình. Rồi họ bất mãn hè nhau la ó phản đối Chúa
bất công. Họ nói to: “Tôi mà biết thế này thì tôi cứ
ăn nhậu say xỉn cho đã và chơi bời dâm
đãng ! Cần gì phải vất vả mất công
sống ngay chính và làm nhiều việc thiện bác ái !”. Họ
hè nhau phản đối Thiên Chúa và không thèm vào Thiên Đàng.
Cuối cùng do lòng ganh ghét thù hận, cả bọn đã
bị loại ra khỏi Thiên Đàng để vào Hỏa
Ngục là nơi dành cho ma quỷ và những kẻ theo chúng,
như lời Chúa Giê-su dạy về ngày phán xét như sau:
“Rồi Đức Vua sẽ phán cùng những người
ở bên trái rằng: ‘Quân bị nguyền rủa kia, đi
đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời
đời, nơi dành sẵn cho Tên Ác Quỷ và các sứ
thần của nó…” (Mt 25,41).
3. SUY
NIỆM:
1) SO
SÁNH NGƯỜI CON CẢ VÀ NHỮNG
THỢ LÀM VƯỜN NHO ĐẦU TIÊN:
Trong
dụ ngôn về người cha nhân hậu, anh con
cả đã bất mãn với người
cha khi ông tỏ lòng bao dung tha thứ đối
với đứa em hư hỏng bỏ đi hoang
trở về nhà. Không những ông không trừng
phạt tội bất hiếu của nó, mà còn
truyền cho gia nhân giết dê béo ăn mừng
nó trở về. Người con cả
đã bày tỏ thái độ ganh ghét khi không
thèm vào nhà và lên tiếng trách cha: “Cha
ơi, đã bao nhiêu năm trời con hầu
hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh,
thế mà chưa bao giờ cha cho lấy
được một con dê con để con vui vẻ
với bạn bè. Còn thằng con của cha
đó, sau khi đã nuốt hết tài sản
của cha với bọn đàng điếm, nay
trở về, thì cha lai giết dê béo ăn
mừng nó !” (Lc 15,28-30). Trong Tin mừng hôm nay,
những người đi làm từ
sáng sớm cũng cằn nhằn ông
chủ vườn nho khi thấy ông trả lương
cho người đi làm vào giờ thứ
mười một. Họ chỉ làm việc một
tiếng đồng hồ cũng được
trả lương một quan tiền, bằng
với những người làm từ giờ thứ
nhất, phải chịu nắng nôi khó nhọc
suốt cả ngày.
Khi
Đức Giê-su ra giảng đạo, các kinh
sư và người Pha-ri-sêu cũng tỏ thái
độ khó chịu khi thấy Người đối
xử thân tình với bọn người thu
thuế, gái điếm và những kẻ
tội lỗi. Như một mục tử tốt
lành, Người đi tìm từng con chiên
lạc, đem lại cho những người
bất hạnh niềm vui và hạnh phúc.
Người mời họ ăn năn sám
hối và hứa ban Nước Trời cho
họ. Như vậy, Đức Giê-su cho rằng người
tội lỗi cũng được hạnh phúc trong
Nước Trời ngang với các kinh sư và
người Pha-ri-sêu, là những người tuân
giữ từng điều khoản dù nhỏ
mọn của luật Mô-sê và tự liệt mình vào hàng
ngũ những người công chính.
2)
THẾ NÀO LÀ THÓI XẤU ĐỐ KỴ GANH
GHÉT ?
-
Ngày từ thuở bình minh của nhân
loại, sau khi nguyên tổ loài người phạm
tội, sự dữ đã lọt vào
thế gian. Ca-in đã ganh tị khi thấy Thiên Chúa
chấp nhận lễ vật của A-ben và bỏ qua
lễ vật của mình. Do lòng đố kỵ, Ca-in coi
A-ben em hắn là kẻ thù và ra tay giết
chết em, và cuối cùng hắn đã bị
trừng phạt. Như vậy kẻ ganh tị
vừa huỷ diệt người khác, lại
vừa tự hủy chính mình.
-
Trong Tin Mừng hôm nay, những người
thợ làm việc từ sáng sớm
cũng đã cằn nhằn ông chủ vì ông đã
trả lương cho người làm sau một
quan tiền, ngang bằng với họ đã chịu
nắng nôi vất vả suốt cả ngày.
Giả như ông trả cho người làm sau
số tiền ít hơn thì chắc họ
đã không cảm thấy khó chịu như
thế. Như vậy kẻ ganh tị do thiếu tình
thương nên không “vui với người vui, khóc với
kẻ khóc”. Họ không coi các người thợ làm
việc sau kia là bạn, nhưng là đối
thủ cạnh tranh. Họ coi sự may lành của kẻ
khác là mối họa cho mình.
3)
ĐẶC ĐIỂM CỦA NGƯỜI CÓ LÒNG ĐỐ
KỴ GANH GHÉT:
- Khó chịu khi thấy
bạn bè hơn mình :
Đặc
điểm thứ nhất là cảm thấy khó chịu khi
thấy bạn bè hơn mình. Khi nghe một ai đó có thi
đậu, có việc làm mới lương cao,
được thăng chức, mới sắm
được chiếc xe mới hay tậu
được nhà mới, … thì người ganh tị thay
vì “vui với người vui” để gửi lời chúc
mừng, thì họ lại cảm thấy bực bội khó
chịu và tìm cách hạ giá trị của người
đó. Trái lại, khi thấy bạn bè sa cơ thất
bại, thì người ganh tị lại thấy hả hê
vui sướng trong lòng !
- Ưa so sánh mình với
người khác :
Đặc
điểm thứ hai của người đố kỵ
là thích soi mói vào chuyện của người khác. Những
người này hay “ngó nghiêng, ngó dọc”, để ý
đến từng lời nói hành động của
người mà họ không ưa. Họ cũng
thường hay nhòm ngó sự thành đạt, hạnh phúc,
nhan sắc của người khác rồi sinh ra tức
tối buồn bực, căm ghét...
- Hay nói hành nói xấu
những ai hơn mình :
Do
thói đố kỵ làm mờ mắt, họ luôn nghĩ
mình hơn người khác, nên khi thấy có ai hơn mình,
họ sẽ nói ra các thói hư của người đó ra
làm trò cười để thỏa mãn lòng ganh ghét. Nếu
cần, họ sẵn sàng thêm bớt thêu dệt, “ít xít ra
nhiều” để hạ giá trị của người kia.
- Không thừa nhận thành
công của người khác
Người
có lòng ganh tị thường không thừa nhận thành
quả của người khác, vì thành công của
người khác cũng đồng nghĩa với sự thất
bại của mình. Vì vậy họ khinh thường
người khác như lời một bài hát vui: “Như hai
cô ca sĩ có khen nhau bao giờ!”. Họ hay tự hỏi:
“Tại
sao người kia không tài giỏi bằng tôi, không thông minh như
tôi mà lại được đặt làm sếp tôi?”
“Tại
sao người kia không xinh đẹp bằng tôi, nhưng
lại có được một gia đình hạnh phúc
như vậy?”
“Tại
sao người kia lại có cha mẹ giàu có sang trọng, đang
khi tôi thì không”?...
- Không muốn kết thân với
những ai tài giỏi hơn mình
Trong
một số trường hợp, khi phát hiện
đồng nghiệp, bạn bè có tài năng hơn mình,
người đố kỵ sẽ xa lánh và không muốn
kết thân với họ vì mặc cảm bị thua kém
họ.
Nhà
văn Pháp De Balzac đã nói “Người ganh tị khổ
sở hơn bất cứ người bất hạnh nào.
Bởi vì hạnh phúc của người khác càng lớn thì
nỗi bất hạnh trong anh ta sẽ càng nhân lên gấp
bội”.
4. CHÚNG TÔI
PHẢI LÀM GÌ ?
-
Mỗi người chúng ta, đều ít nhiều có tính
xấu ganh ghét đố kỵ này. Điều cần làm
là thay vì đố kỵ ganh tị với sự thành công
của người khác, chúng ta hãy coi sự thành công của
người khác là động lực thúc đẩy chúng ta
phải cố gắng vươn lên bằng họ.
- Phải cố gắng « tranh
đua nhưng đừng ganh đua » : Chẳng
hạn trong sân đá banh, bạn phải cố chạy
nhanh hơn để giành bóng đối thủ, thay vì ngáng
chân cho họ té, hoặc thúc cùi chỏ vào người họ
hay dùng tay nắm áo họ lại, để giành bóng...
- Cách ứng xử
của ông chủ trong câu chuyện dụ ngôn chính là cách
ứng xử của Thiên Chúa muốn dạy chúng ta hôm
nay: Ngài mời gọi những người thu thuế
bị loại trừ, những người tội lỗi
bị khinh dể vào Nước Trời, vì “Thiên Chúa là Tình
Yêu”. Với những ai hay so đo, tính toán với tha nhân,
Thiên Chúa sẽ theo luật công bằng mà xét xử họ;
Còn với kẻ biết thương xót người, thì
sẽ được Ngài xét xử theo lòng xót thương.
Ước gì trái tim chúng ta trở nên giống như trái tim
của Thiên Chúa Tình Thương.
- Ai cũng được Chúa ban cho
những khả năng khác nhau là những nén vàng... Trong ngày
phán xét Chúa không hỏi: con đã làm được những
gì, đã giữ những chức vụ gì ? Mà Ngài chỉ hỏi về lòng mến
Chúa yêu người của chúng ta. Chính tình yêu Chúa thể
hiện qua thái độ đối xứ với tha nhân
sẽ là thước đo hạnh phúc của chúng ta trên
thiên đàng đời sau.
4. THẢO LUẬN:
1)Trong
đời sống hàng ngày chúng ta
thường hay ganh ghét kẻ khác vì
những nguyên nhân nào ? Ta phải làm gì
để bỏ đi thói ganh tị này ? 2) Lời
dạy của thánh Phao-lô : “Vui với
người vui, khóc với người
khóc” có thể thực hành
được không ? 3) Bạn cần làm gì khi thấy
người khác hơn mình như họ thi
đậu còn ta bị rớt, họ hát hay và được
nhiều người mến mộ còn ta thì không ?
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY THIÊN CHÚA CHA TỪ BI NHÂN
HẬU. Xin hãy ban cho chúng con trái tim bao dung
dịu dàng của Chúa Giê-su và trái tim đầy
từ bi nhân ái của Mẹ Ma-ri-a. Xin cho trái tim con
không ích kỷ khép lại cho bản thân, nhưng
biết mở ra để đón nhận tha nhân.
Xin cho trái tim con nên giống trái tim nhân hậu
của Chúa Giê-su. Xin cho trái tim con vượt
lên mọi tranh chấp nhỏ nhen và mọi trả
thù ti tiện. Xin cho tâm hồn con luôn được
bình an, không giận hờn ganh ghét với
những ai hơn con. Xin giúp tình cảm của con
luôn quân bình: không quá vui khi thành công, cũng chẳng
chán nản khi thất bại. Xin cho con biết khiêm
tốn và bình tĩnh đón nhận những
lời phê bình xây dựng của kẻ khác. Xin
cho trái tim con đủ lớn để yêu
thương hết mọi người, kể cả
những kẻ không ưa con và những người
con không ưa họ. Xin cho vòng tay con luôn rộng
mở để đón nhận cả thế
giới, để không có ai là kẻ thù, nhưng
biến kẻ thù thành bạn con bằng tình thân ái
bao dung.
X) HIỆP
CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI
CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH -
HHTM
|