Cha Ta sẽ
ban cho
(Suy
niệm của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Đoạn 18:15-20 nằm trong văn
mạch chương 18 bàn về đời sống
cộng đoàn. Các chủ đề chính được
bàn đến là các trẻ nhỏ và những người
bé mọn (18:1-14), hoà giải và tha thứ (18:15-35). Ngay sau khi nói về sự lầm
lạc của một trong những người bé mọn (18:10-14), Matthêô bàn về việc sửa
lỗi anh em, hoà giải (18:15-20), và tha thứ (18:21-35).
Trong đoạn nầy, từ ean, “nếu” xuất hiện
nhiều lần (cc. 15[2x], 16.17[2x], 18[2x], 19[2x]). Các câu 15-17 dùng các đại danh từ
ngôi thứ hai số ít, “anh”, sy ; trong khi các câu còn lại, 18-20, dùng “các anh”,
hymin. Có thể phân chia
đoạn nầy như sau: - Sửa lỗi người
anh em (cc. 15-17); - Quyền bính buộc tội và tha tội
(c. 18); - Chúa Cha nhậm lời và Chúa Giêsu hiện diện
(cc. 19-20).
Sửa
lỗi người anh em (cc. 15-17)
Matthêô đặt ra vấn đề là
phải đối xử như thế nào với
người anh em của mình khi họ phạm lỗi
đến mình. Ở đây tất cả mọi chuyện
được đặt ra bằng những câu
điều kiện, ean,
“nếu”. Có thể phân bố cục các câu nầy
như sau: - Đặt ra một trường hợp xúc
phạm đặc thù (15a), - Các cách sửa lỗi (cc.
15b-17a), - Cách đối xử với người không hoán
cải (c. 17b).
Mở đầu câu thánh sử nói
đến việc “phạm lỗi”, hamartanò. Trong
mạch văn của chương 18, động từ
nầy chỉ tội “gây vấp ngã”, skandalizò, cho một trong những người bé
mọn tin vào Chúa Giêsu (cc. 6.8.10). Cấu trúc hamartanò + eis +
một người: chỉ phạm lỗi đến cá
nhân một người (Kh 20:6.9; 34:9). Tội
“gây vấp ngã” là tội làm tổn hại đến lòng
tin vào Chúa Kitô. Tội nầy tuy phạm
trực tiếp đến một cá nhân, nhưng cũng có
ảnh hưởng trên cộng đoàn. Bởi
đó, việc sửa lỗi cần đến cả cá
nhân lẫn cộng đoàn.
Chúa Giêsu muốn “người anh em”
được sửa lỗi (c. 15). Cách sửa lỗi
đầu tiên là giữa cá nhân người phạm lỗi
và người bị xúc phạm. Động
từ elenchò là hapax trong Matthêô. Trong tin
mừng Luca động từ nầy được dùng
trong ngữ cảnh khác, và rất hữu ích giúp chúng ta
hiểu nghĩa của động từ. Gioan
Tẩy Giả “khiển trách”, elenchò,
Hêrôđê vì đã lấy bà Hêrôđia làm vợ” (Lc 3:19). Gioan cho ông Hêrôđê
thấy việc ấy là sai, và không nên làm. Elenchò trong ngữ cảnh
của Matthêô cũng mang ý nghĩa tương tự là
“mở ra, trải ra, chỉ cho một người
thấy những sai lỗi của mình”, và “thuyết
phục họ nhận mình sai lỗi” (x. Lc 3:19; Dt 12:5; Khải
huyền 3:19; Lv 19:17).
Kết quả của việc sửa
lỗi có thể là tích cực, “nếu người anh em
nghe ngươi”.
Động từ akouò, mang
ý nghĩa nhiều hơn là “nghe”, mà là “làm theo
điều đã được soi sáng/cho biết”,
đúng hơn là “hoán cải” (7:24;
10:14; 13:9); Luca dùng từ metainoia “hoán
cải” trong trường hợp nầy (Lc 17:3).
Động từ kerdainò,
“kiếm được”, mang ý nghĩa sự sở
hữu, sở hữu vật chất (16:26; 25:16tt). Giúp hoán cải
một người anh em là “kiếm được”
người ấy cho Chúa Giêsu Kitô và cộng đoàn (18:15; 1 Co 9:23; 1Ph 3:1); tuy nhiên một
cách nào đó việc ấy cũng được kể là
thuộc về người đi sửa lỗi, “anh em
của ngươi”.
Kết quả có thể là tiêu cực,
“Người anh em không nghe ngươi” (c. 16.17), việc
sửa lỗi đòi hỏi nhiều cố gắng
hơn. Phải
cần đến người khác và cộng đoàn. Trước tiên là cần đến hai hoặc ba
người, như thấy điều nầy
được áp dụng ở vài nơi trong Tân
ước (x. 26:60; Ga 8:17-18; 2 Co 13:1). Và nếu không có kết
quả nữa, phải cần đến cộng đoàn.
Ekklèsia ở đây chỉ
cộng đoàn kitô hữu địa phương, chứ
không mang nghĩa phổ quát như trong 16:18.
Nếu cách sửa lỗi cuối cùng
vẫn không đạt kết quả tốt, “người
đó đối với ngươi như người
ngoại, người thu thuế”. Câu kết luận quy
chiếu lại trên người bị phạm lỗi (c.
15a) 1à chỉ “đối với ngươi” mà thôi. Xem họ như “người ngoại,
người thu thuế”, nghĩa là như người
chưa hoán cải, chưa có một cách sống của các
môn đệ của Chúa Kitô (x. 4:56-57). Bản văn không nói
đến cách cư xử của cộng đoàn
đối với người nầy.
Việc Matthêô kể ra đến ba giai
đoạn sửa lỗi cho thấy thánh sử nhấn
mạnh đến sự rất cần thiết của
việc giúp người anh em sửa lỗi. Cá nhân cũng như
tập thể phải cố gắng hết sức và
bằng mọi cách đưa người anh em trở
về.
Quyền
buộc tội và tha tội (c. 18)
Từ thái độ đối với
người không “chịu nghe” (c. 17), Chúa Giêsu đưa ra
một nguyên tắc về quyền buộc tội và tha
tội của các môn đệ (18:18). So sánh giữa câu nầy
và câu 16:19 mà Chúa Giêsu nói với Phêrô trong trình
thuật trước, chúng ta thấy có nhiều
điểm khác biệt. Trong câu 16:19, các động từ deomai, “buộc” và luò, “tháo” đểu ở ngôi
thứ hai số ít. Chúa
ban quyền nầy cho Phêrô; trong khi ở câu 18:18, các
động từ được dùng số nhiều.
Quyền nầy được ban cho các môn đệ. Do
ngữ cảnh của câu nầy, nói về gây cớ
vấp phạm (cc. 6.8.10), phạm tội (c. 15), việc
sửa lỗi (cc. 16-17), việc “buộc” và “tháo” nầy
được hiểu như là phán quyết về tội.
Chúa
Cha nhậm lời và Chúa Giêsu hiện diện (cc. 19-20)
Hai câu 19 và 20 được đặt chung với nhau vì chúng được dẫn
vào bởi cùng một câu: “Quả thật, Ta lại bảo
các ngươi”. Các câu cuối nầy liên hệ với các
câu trên bởi cấu trúc câu: ean (c. 19), “nếu”, “hai”, “ hoặc ba” (c. 16 và 19.20), “trên mặt
đất”, “trên trời” (cc. 18.19). Như các câu 15-17
đề cập đến giữa hai người trong
vấn đề “phạm lỗi”, ở đây cũng nói
đến “hai người” (c.19), “hai hoặc ba
người” (c.20), nhưng trong việc “đồng tâm”
(c.19) và “tụ họp nhân danh Ta” (c. 20); và kết quả là
“Cha Ta sẽ nhậm lời” (c. 19) và Chúa Giêsu “sẽ ở
giữa họ” (c. 20).
Ở đây Chúa Giêsu thêm một nguyên
tắc nữa. Đó là “Nếu trong các ngươi hai
người dưới đất đồng thanh xin
về bất cứ việc gì, thì Cha Ta, Ðấng Ngự
trên trời sẽ ban cho” (c. 19). Xét
về mặt hình thức, hai câu 19-20 nầy có liên hệ
với các câu trước như đã phân tích ở trên.
Xét về nội dung, xem ra Matthêô đưa vào
đây một chủ đề mới. Thật
ra, điều Matthêô nói trong các câu 19-20 có liên hệ rất
mật thiết với các câu trước.
Sau khi nói đến việc một
người anh em sai lỗi (18:12.15), việc sửa
lỗi, chủ yếu là không thành công (cc. 16-17) và quyền
buộc tội và tha tội của các môn đệ (c. 18),
thánh sử nói đến sự hoà hợp của các môn
đệ trong cầu nguyện và tụ họp như là
điều kiện để được Chúa Cha
nhậm lời về “những điều họ kêu xin”,
và Chúa Giêsu “hiện diện giữa họ” (c. 20).
Động từ symphòneò,
nghĩa đen của nó là “vang lên cùng một giọng”,
nghĩa là “hòa hợp”, “có một lòng một ý” (x. 20:3.13), aiteò ở đây có nghĩa là
“cầu xin” trong bối cảnh cầu nguyện (21:22), và panta pragma, “bất cứ
điều gì”; hiểu theo nghĩa là “việc liên quan
đến luật lệ” (Thayer; x. Rom 16:2; 1 Co 6:1). Nếu đúng như thế, panta pragma nầy ám
chỉ những chuyện “gây vấp ngã” (cc. 6.8.10), đi
lạc (c.12), phạm lỗi (c. 15a). Và
điều các môn đệ cầu xin chính là sự hoán
cải của những người ấy, vì các môn
đệ đã tìm cách sửa lỗi họ mà không thành
công.
Câu 20 khai triển ý tưởng việc
cầu nguyện trong trường hợp cụ thể
ở câu 19; gar, “vì” (c.20) mang
ý nghĩa giải thích. “Tụ họp nhân danh Chúa Giêsu Kitô" là tụ
họp để cầu nguyện, là tụ họp của
các môn đệ của Chúa Kitô. Lời
hứa nầy được tuyên bố lại trong 28:20
bởi Chúa Giêsu Kitô phục sinh. Vậy
Chúa Giêsu Kitô phục sinh hiện diện giữa những
người tụ họp lại cầu nguyện nhân danh
Ngài.
Sửa lỗi người anh em
phạm lỗi là việc phải làm. Nhưng cầu nguyện
cho người ấy thì có sức mạnh và hiệu
quả hơn cả việc sửa lỗi, vì lúc ấy
chính Thiên Chúa hành động. Hãy cầu
nguyện để mọi người được
ơn cứu độ.
|