BÀI LỜI CHÚA 139
BÍ TÍCH THÁNH THỂ
Thánh Thể là một hiến
tế (Phần I)
Tổng
hợp các trình thuật lập phép Thánh Thể
(Mt
26.20-29; Lc 22.14-20; 1 Cor 11,23-26)
Môn đệ chuẩn bị
lễ Vượt qua như Đức Giêsu truyền dạy
họ. Khi giờ đã đến, Ngài vào tiệc
làm một với các tông đồ, và nói với họ: “Thầy
ước ao ăn lễ Vượt qua này với anh em
trước khi Thầy chịu khổ nạn! "….
Đoạn cầm lấy
bánh, chúc tụng và tạ ơn, Ngài bẻ ra và ban cho họ
mà rằng: “Hãy cầm lấy mà ăn. Này là mình Thầy
phải thí ban vì anh em; hãy làm sự này mà nhớ đến
Thầy". Cũng vậy về chén, sau khi đã dùng
bữa tối xong, Ngài cầm lấy chén và tạ ơn,
Ngài ban cho họ mà rằng: “Hãy uống chén này hết thảy, vì
này là máu Giao ước đổ ra vì anh em. và nhiều
người để nên ơn tha tội.”
* Đó
là Lời Chúa ! – Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa !
Suy niệm lời Chúa
Ta thường nghe cũng
như thường quen miệng nói: “Chúa lập phép Thánh Thể
!” Và chúng ta nghĩ đó là chuyện quá dễ đối với
Chúa : Chúa là Đấng quyền phép vô cùng, chỉ phán một
lời mà dựng nên cả trời đất bao la vĩ
đại, huống chi là phép Thánh Thể nhỏ bé này! Chúa
chỉ cần phán một lời và hóa phép một cái là bánh
và rượu trở nên Mình Máu Chúa hiện diện ngay trên
bàn thờ. Đây là một phép lạ ! Mà Chúa đã làm biết
bao phép lạ có lẽ con lớn lao hơn thế này…
Hoặc có khi chúng ta cũng
chỉ coi việc lập Phép Thánh Thể là Chúa lập “một
nghi thức” để các Tông đồ (và sau đó là các
linh mục) vâng lệnh Chúa đọc lời truyền phép
trên bánh rượu đúng “nghi thức” Chúa dạy : “Này là Mình Thầy”… “Này là Máu
Thầy…” thì phép lạ xảy ra : trên bàn thờ Mình Máu
Chúa Giêsu hiện diện!
Chính chỉ vì hiểu sơ
xài như thế, không đi sâu vào mầu nhiệm, nên chúng
ta coi thường phép Thánh Thể, và không mấy quí
trọng cho xứng đáng.
Thật thế, vấn
đề đâu có đơn giản như vậy ! Đâu
có chỉ là vấn đề làm một phép lạ hay
lập một nghi thức ! Vấn
đề là Thịt Máu Chúa bởi đâu mà có ?
Dù Chúa quyền phép vô biên, phán một lời liền có
trời đất, nhưng Chúa không thể phán một
lời liền có Thịt Máu Chúa để làm thần
lương nuôi linh hồn ta được. Muốn có Thịt Máu như
thế, Chúa phải chết đã. Đấy ghê chưa ! Và cái chết của Chúa, Chúa cũng không thể phán
một lời mà có. Cái
chết của Chúa là một kinh nghiệm bản thân
Người phải trải qua!
Đó là
một quá trình đầy đau đớn gian khổ : Ngài
phải vâng ý Chúa Cha mà hiến mình làm tế lễ hi sinh,
chịu chết trên thập giá, và sau khi được Chúa
Cha chấp nhận tế lễ, Chúa Cha làm cho Ngài sống
lại, khi ấy Thịt Máu Chúa Giêsu mới có sự
sống thần linh mà làm thần lương nuôi sống
chúng ta!
Lấy ví dụ về hạt lúa mì cho dễ hiểu :
Không ai trong chúng ta ăn hạt lúa sống cả, muốn
trở thành bánh cho ta ăn, thì hạt lúa phải trải
qua một quá trình làm bánh : trước hết lấy
hạt lúa đem phơi khô cho chết đi, rồi
nghiền nát thành bột, nhào với nước, rồi
bỏ vào lò nướng mới thành bánh cho người ta
ăn.
Thì cũng vậy, Bánh Sự Sống, là Chúa Giêsu
Con Một Thiên Chúa, cũng phải trải qua một quá trình
chịu thử luyện gian khổ trong cuộc sống
làm người, phải bị nghiền nát trong
cuộc Thương khó, phải chịu nướng
trong lò Tử nạn, rồi mới chỗi dậy
trong sự Phục sinh, mà trở nên Bánh thần linh
tuyệt diệu ban Sự Sống của chính Thiên Chúa cho
nhân loại ăn mà được sống muôn đời.
Trên đây ta đã được
hiểu quá trình vô cùng gian khổ mà Chúa Giêsu phải trải
qua là cái chết trên thập giá. Mà quá trình ấy, khoa khảo
cứu tôn giáo gọi là “việc
hiến tế” nằm trong truyền thống hiến
tế cổ truyền của toàn thể nhân loại.
Đúng vậy, từ thời
hồng hoang khi loài người còn ăn lông ở lỗ, ẩn
náu trong hang động hay dưới chòm mái lá thô sơ trống
trải, các mãnh lực thiên nhiên như sấm sét, bão bùng,
giông tố, mặt trời với sức nóng thiêu đốt,
biển cả với sóng dữ, các loài kình ngư, thủy
quái khổng lồ hung tàn…làm cho con người vô cùng sợ
hãi. Họ coi những uy lực mạnh mẽ ấy là các
Thần linh : thần sấm, thần sông, sơn thần, thủy
thần, thái dương thần (thần mặt trời)
v.v…có thể ban phúc hay tác hại cho đời sống của
họ.
Vì thế,
để lấy lòng các Thần linh, loài người đã nghĩ ra một cách : hiến
tế lễ vật. Qua
việc hiến tế lễ vật đó, họ muốn
:
1- làm thần
linh nguôi giận…và được Thần linh cứu
giúp.
2- được thông hiệp
với các thần bởi việc thụ Lộc Thánh, là phần lễ vật mà sau
khi chấp nhận của lễ dâng hiến, Thần linh
ban xuống lại cho người dâng lễ thụ hưởng.
Như vậy, ta nhận thấy
việc hiến tế có hai chiều :
I. Loài người dâng lên /
II. Thần linh ban xuống lại
I.- Trước hết : LOÀI NGƯỜI DÂNG LỄ VẬT
LÊN NHƯ THẾ NÀO ?
Thường thường lễ
vật là một con chiên, con dê hay con
bò, v.v... mà người ta đem
giết đi để dâng, việc ấy gọi là sát
tế.
Rồi đem hỏa thiêu
tế vật để nhờ ngọn lửa biến
hóa tế vật thành làn khói hương thơm bay lên cho Thần
linh hưởng. Và họ tin rằng khi các Thần hít lấy
khói hương thơm ấy (xem hình), đó là dấu tế vật đã được
Thần linh chấp nhận và
chiếm hữu, làm thành sở hữu của Thần,
và bởi đó tế vật được thấm nhuần
thần tính, (tức là được nhiễm lấy
các đặc tính của Thần), được mang tràn
đầy sức thần thánh của Thần, nói tóm : được thần hóa,
thánh hóa. (Rồi Thần linh sẽ ban một phần
tế vật được thần hóa ấy xuống lại
cho người dâng được thụ hưởng,
nhưng đấy là điều ta sẽ xem sau)
·
Thánh kinh cho biết :
kiểu hiến tế cổ truyền ấy cũng
được thi hành nơi dân Israen:
a- Sau khi thoát nạn Đại Hồng
thủy, ông Noê và gia đình ra khỏi tầu và “ dựng một bàn thờ
để kính ĐỨC CHÚA. Ông đã lấy một
số trong các gia súc thanh sạch và các loài chim thanh sạch mà
dâng làm lễ toàn thiêu trên bàn thờ. ĐỨC CHÚA ngửi
mùi thơm ngon, và ĐỨC CHÚA tự nhủ : “Ta
sẽ không bao giờ nguyền rủa đất đai vì
con người nữa.” (St 8.20-21)
b- Thời
dân Israen rong ruổi trong sa mạc, sau khi xuất ra khỏi
cảnh nô lệ Ai Cập, cũng đã thiết lập
việc tế lễ.
“ĐỨC CHÚA gọi ông
Mô-sê, và phán với ông rằng : “Hãy nói với con cái Ít-ra-en
và bảo chúng : Khi một người trong các ngươi
dâng lễ tiến lên ĐỨC CHÚA, nếu là gia súc thì các
ngươi phải dâng bò hay chiên dê làm lễ tiến.
[….] Người ấy sẽ sát tế con bò tơ
trước nhan ĐỨC CHÚA, và các con A-ha-ron là các tư
tế, sẽ tiến dâng máu ; chúng sẽ rảy máu chung
quanh bàn thờ đặt ở cửa Lều Hội
Ngộ […]…. sẽ đốt tất cả cho cháy nghi
ngút trên bàn thờ. Đó là lễ toàn thiêu, lễ hoả
tế, là hương thơm làm vui lòng ĐỨC CHÚA.”
(Lv 1.1-9)
c- Nhất là tế lễ long trọng ký kết Giao
Ước giữa dân Israel
và Thiên Chúa ở núi Sinai :
“Ông Mô-sê xuống (núi)
thuật lại cho dân mọi lời của ĐỨC CHÚA
và mọi điều luật (Người truyền). […]
Sáng hôm sau, ông dậy sớm, lập một bàn thờ dưới
chân núi và dựng mười hai trụ đá (tượng
trưng) cho mười hai chi tộc Ít-ra-en. Rồi ông sai
các thanh niên trong dân Ít-ra-en - (hồi xưa ấy chưa
có tư tế) - dâng
những lễ toàn thiêu, và ngả bò làm hy lễ kỳ an
tế ĐỨC CHÚA. Ông Mô-sê lấy một nửa
phần máu, đổ vào những cái chậu, còn nửa
(phần máu) kia thì rảy lên bàn thờ (biểu
tượng về Thiên Chúa). (Sau khi dân cam kết thi hành
và tuân theo những gì Thiên Chúa truyền), ông Mô-sê lấy máu rảy lên dân và nói : “Đây là
máu giao ước ĐỨC CHÚA đã lập với anh em,
dựa trên những lời này.” (Xh 24.3-8).
Tóm lại, tất cả các việc kể
trên đều cho thấy loài người dâng lễ
vật là để mong được Thần linh hay Thiên
Chúa nguôi giận, tha tội và ban ơn, hoặc kết
ước với họ.
·
Bây
giờ đem áp dụng
vào cái chết trên thập giá của Chúa Giêsu :
Trước tiên, cái chết của Chúa Giêsu trên
thập giá đích thực là
một hiến tế ! Trong bữa Tiệc Ly
trước khi chịu Tử nạn, chính Chúa Giêsu nói cho
các môn đệ biết cái chết của Ngài là một hiến tế. Sách
Tin Mừng (Lc 22.19) thuật lại rằng :
"Ngài cầm lấy
bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các ông và nói:
"Đây là mình Thầy, hiến dâng vì anh em. Anh em hãy
làm việc này, mà tưởng nhớ đến
Thầy."
Cả Tân Ước đều hiểu cái chết trên
thập giá của Chúa Giêsu là một việc hiến tế
:
- "Chiên Vượt
Qua của chúng ta là Đức Kitô, đã chịu hiến
tế ." (1Cor 5.7)
- "… Đức Ki-tô đã yêu thương chúng ta, và vì
chúng ta, đã hiến mình làm lễ vật và hy lễ dâng
lên Thiên Chúa tựa hương thơm ngào ngạt." (Ep
5.2) (Kỳ sau sẽ tiếp)
Tích truyện
Indira đến gặp đạo sĩ
Makia và ngỏ lời : “Xin ngài hãy chỉ cho tôi một
thần linh để tôn thờ và một tôn giáo để
sống theo”. Đạo sĩ Makia liền đưa Indira
đến một tòa nhà rộng lớn, nơi đó
mỗi vị thần được dành cho một gian
phòng riêng. Dừng chân đầu tiên trước tượng
thần Batda, đạo sĩ giới thiệu : “Đây là
vị thần sẽ cất hết mọi đau khổ
khỏi thế giới.” Nhưng Indira lắc đầu và
xin được sang phòng khác. Trước vị thần
thứ hai, đạo sĩ Makia giới thiệu : “Đây
là nữ thần Sopha có bí quyết giúp con người tránh
được đau khổ.” Nhưng Indira cũng lại
xin đạo sĩ đi nơi khác. Cuối cùng, hai
người đến trước một vị thần
bị treo trên thập tự giá. Indira tò mò hỏi :
- “Vị thần
này là ai mà bị treo trên thập tự như thế ?”
Đạo sĩ
chậm rãi trả lời : “Đây là thần của
những người Kitô.”
Với chút xúc
động lộ trên mặt, Indira xin đạo sĩ
giải thích thêm. Đạo sĩ ngạc nhiên hỏi : “Này
anh Indira, anh làm tôi thắc mắc. Hai vị thần anh
gặp lúc trước, một vị đề nghị
cất hết mọi đau khổ, một vị
đề nghị giúp tránh sự đau khổ, thế mà
anh không thích vị nào cả. Tại sao anh lại thích và
muốn làm đồ đệ của vị chết
nhục nhã trên thập tự như thế ?”
Indira giải thích
:
- “Hứa làm
mất đi sự đau khổ trên trần gian này là
hứa hão vì người ta không thể nào cất đi
những đau khổ. Và dạy con người tránh
đau khổ là dạy con người sống thấp hèn,
vả lại cũng không thể nào tránh đau khổ
được. Nhưng nhìn vào vị thần của
người Kitô hữu chấp nhận đau khổ trên
thập tự, tôi hiểu được ý nghĩa của
đau khổ và chấp nhận nó. Một khi người
ta hiểu và chấp nhận đau khổ thì niềm vui và
an hòa sẽ trổ sinh trên thế giới này. Đó là lý do
tôi bị thu hút bởi Đấng chịu treo trên thập
tự kia và muốn làm môn đệ Ngài. Vậy xin
đạo sĩ đưa tôi đến nơi các Kitô hữu
sống để tôi được thành môn đệ Ngài”.
Đạo
sĩ dẫn Indira đến nhà thờ những
người Công giáo để xin lãnh bí tích Rửa tội.
***
|