Những ân tình thường tình
(Suy niệm của
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Phải
vào đạo Công giáo mới được
được lên thiên đàng sao? Vâng, đúng thế. Một thừa sai cách đây gần 300 năm không
chỉ xác quyết như trên mà còn nói thêm rằng mọi
người không vào đạo Công giáo đều xuống
hỏa ngục. Một bà vương
tộc nước Việt chúng ta, người đặt
câu hỏi trên đây đã nhất quyết không vào
đạo Công giáo vì một chức sắc của
đạo ấy quả quyết tiên tổ của bà
đều xuống hỏa ngục tất. Và chính bà
ta đã thẳng tay đuổi vị
thừa sai ra khỏi nhà.
Cần khiêm tốn
thú nhận rằng đã một thời Kitô hữu chúng ta
tự nhốt mình trong tháp ngà tự kiêu chủ quan: Chỉ
có đạo ta mới là đạo thật, chỉ có chúng
ta mới nắm trọn chân lý, ngoài đạo ta, anh em
lương dân, bà con khác đạo đều là sai lạc
sạch sành sanh và không thể được cứu
rỗi.
Thử hỏi chân lý
ta có được do bởi đâu, phải chăng là
nhờ sự truy tìm của trí khôn? Không
loại trừ sự góp phần của lý trí, nhưng
nguyên lý trí vẫn chưa đủ. Chân lý ta thủ
đắc là nhờ lòng tin dựa vào sự mạc
khải của Thiên Chúa. Đức tin là ân
sủng nhưng không do Chúa ban tặng. Thiên
Chúa lại là Đấng giàu lòng từ bi, nhân ái. Người muốn mọi người nhận
biết chân lý để được cứu rỗi.
Thánh Tông đồ dân ngoại khẳng định sự
thật này với môn đệ Timôtê (x. Tim 2,3-4
). Thiên Chúa, Đấng chẳng nể vì hay tây vị
một ai, Đấng rộng tay cho mưa rơi
đều trên người lành lẫn kẻ dữ,
Đấng làm cho mặt trời mọc lên soi sáng
người công chính lẫn kẻ bất lương,
chắn chắn Người chẳng hẹp hòi với
bất cứ ai. Tiên tri Isaia công bố rằng mọi
người sẽ được Chúa dẫn lên Núi thánh,
cho họ hân hoan bước vào Nhà cầu nguyện, vì Nhà
Chúa là nhà cầu nguyện của muôn dân nước ( x.Is
56,6-7 ).
Đức tin là do
Chúa ban tặng. Thế nhưng đức tin không phải
là một món quà cụ thể được trao ban một
lần tức thời, nhưng thường là dần
dần qua những điều kiện tự nhiên khách quan
lẫn chủ quan. Một trong những điều
kiện tự nhiên ấy chính là những mối tình chân
chính bình thường của kiếp người: Tình
phụ tử, mẫu tử, tình phu thê, tình bằng
hữu... Một người mẹ, một
phụ nữ xứ Canaan, một lương dân hay ngoại giáo
đã bày tỏ niềm tin sắt đá khiến Chúa Giêsu
phải khâm phục.
Đấng Thiên sai cũng đã từng khâm phục lòng tin
của một viên sĩ quan bách quản đến nỗi
Người khẳng định rằng chưa thấy có
lòng tin nào mạnh mẽ như thế trong Israel ( x. Mt 8,10
).
Viên sĩ quan bách
quản và người mẹ xứ Canaan trên đã sớm chân nhận căn tính Thiên Sai
của Chúa Giêsu chăng? Điều này chúng ta
không thể trả lời cách chắc chắn. Nhưng một điều thật hiển nhiên ta
có thể khẳng định, đó là tấm lòng của
người phụ nữ ngoại giáo dành cho đứa
con và tấm lòng của viên sĩ quan bách quản dành cho
người đầy tớ thật sâu đậm và
dạt dào. Vì thương con, chị phụ nữ
kiên trì lẽo đẽo theo chân Thầy
Giêsu. Cũng vì thương con, chị đã vượt qua
chướng ngại của sự tự ái, đồng
thời bày tỏ sự khiêm nhu: "Vâng, thưa Ngài,
dẫu sao, chó con cũng được hưởng
những mãnh vụn từ bàn rơi xuống" ( Mt 15,27 ). Vì thương người
đầy tớ, viên sĩ quan bách quản không ngại
ngần đến gặp Chúa Giêsu, một người Do
Thái vốn là dân đang bị cai trị, đồng
thời lại bày tỏ sự khiêm nhu: " Thưa Ngài,
tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi..." ( Mt
8,8 ).
Theo tiến trình
tự nhiên, thì không phải nhờ đã có lòng tin nên ta
biết yêu, mà ngược lại nhờ biết yêu
thương thì lòng tin của ta dần dà nên vững
mạnh. Chúng ta dễ nhận ra hiện
thực này qua tương quan đôi lứa. Vì yêu nhau nên đôi bạn trẻ ngày càng tin
tưởng nhau hơn là vì đã tin tưởng nhau nên
họ yêu nhau. Như thế niềm tin thường
khởi đi từ trái tim hơn là
từ khối óc. Quả thật. lịch sủ Hội Thánh minh chứng
rằng người ta đến với đức tin
thường là do cảm nhận một mối tình,
một nghĩa cử nào đó hơn là do "bị thua
lý". Xét theo chiều ngược lại, khi niềm tin
của một Kitô hữu ngã nghiêng, chao đảo hay khô
cằn, thì lý do thường thấy là vì đời
sống luân lý sa sút hơn là do thiếu hiểu biết,
mặc dù ta không thể loại trừ hay giảm nhẹ
vai trò của lý trí trong việc gìn giữ và củng cố
đức tin.
Trong thời gian rao
giảng tin mừng, Chúa Giêsu thường bày tỏ tình yêu
của Người qua việc thi ân giáng
phúc rồi sau đó mời gọi người ta tin vào
Người. Phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi no đủ
gần cả vạn người cũng như nhiều
phép lạ khác như chữa lành người mù từ
thưở mới sinh... là một minh chứng ( Ga 6,35; 9,35 ). Ngay đêm Tiệc lý, sau khi
cử hành "Lễ tạ ơn" và rửa chân cho các
môn đệ Chúa Giêsu tha thiết: "Anh em hãy tin vào
Thầy..." ( Ga 14,1 ).
Là những
người đã lãnh nhận hồng ân đức tin và
được xem là người có đức tin,
ước gì chúng ta biết củng cố niềm tin
của mình bằng chính những nghĩa cử bác ái yêu
thương. "Đức tin không có việc làm là
đức tin chết" ( Gia 2,17 ). Khi
khẳng định chân lý này thánh Giacôbê tông đồ
trước tiên muốn nói đến hành vi
bác ái mà Kitô hữu cần thường xuyên thực thi. Vì
trước đó Ngài nói: "Giả như có người
anh em hay chị em không có áo che thân và không có đủ
của ăn hằng ngày mà có ai trong anh em lại nói với
họ: 'Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no',
nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ
cần, thì nào có ích lợi gì?" ( Gia
2,15-16 ).
Một sứ vụ
gắn liền với căn tính của Kitô hữu, đó
là rao giảng tin mừng, là chia sẻ niềm tin mình đã
lãnh nhận. Có nhiều cách thế để thực thi
sứ mạng truyền giáo, tuy nhiên cách thế xem ra
thiết thực nhất, để khởi đầu
việc gieo hạt giống đức tin đó là rộng
tay chia sẻ tấm lòng của mình qua các mối tình nhân
loại chính đáng và phải đạo. Dĩ nhiên không
phải dùng của cải vật chất như chiêu bài
để câu tín hữu như đã có một thời
với "chuyện đạo gạo, đạo bộp
bắp, bột xép...", nhưng phải phát xuất
từ một tấm lòng yêu thương chân thật.
Biết
yêu thương, dù với những nghĩa cử
thường tình của tình nhân loại, thì niềm tin
sẽ được củng cố. Được yêu
thương thì niềm tin sẽ được gợi
mở và dệt xây. Thiên Chúa sẵn sàng đón nhận
những ân tình bình thường của
ta để tuôn ban ân sủng đức tin. Có
đức tin thì sẽ có sự sống đời
đời. Xin đừng quên lời cảnh báo
của Thầy chí thánh: "Từ phương Đông
phương Tây, nhiều người sẽ đến cùng
dự tiệc cùng các tổ phụ Abraham, Isaac va Giacop trong Nước Trời. Nhưng con
cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ
tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ
phải khóc lóc nghiến răng (Mt 8,11-12).
|