HIỆP SỐNG TIN
MỪNG
CHÚA NHẬT 20
THƯỜNG NIÊN A
Is 56,1.6-7; Rm
11,13-15.19-32; Mt 15,21-28
CÁC PHẨM CHẤT
CỦA MỘT ĐỨC TIN MẠNH
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN
MỪNG: Mt 15,21-28
(21) Ra
khỏi đó, Đức Giê-su lui về miền
Tia và Xi-đon. (22) thì này có một
người đàn bà Ca-na-an, ở miền
ấy đi ra, kêu lên rằng: “Lạy Ngài là
Con Vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi ! Đứa
con gái tôi bị quỷ ám khổ sở
lắm !”. (23) Nhưng Người không đáp
lại một lời. Các môn đệ lại
gần xin với Người rằng: “Xin
Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà
ấy cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi !”. (24)
Người đáp: “Thầy chỉ
được sai đến với những
con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi”. (25)
Bà ấy đến bái lạy mà thưa
Người rằng: “Lạy Ngài, xin
cứu giúp tôi !” (26) người đáp:
“Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném
cho lũ chó con”. (27) Bà ấy nói: “Thưa Ngài,
đúng thế, nhưng mà lũ chó con
cũng được ăn những mảnh
vụn trên bàn chủ rơi xuống”. (28) Bấy
giờ Đức Giê-su đáp: “Này bà,
lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn
sao thì sẽ được vậy”. Từ
giờ đó, con gái bà được
khỏi.
2. Ý
CHÍNH: ĐỨC GIÊ-SU CHỮA CON GÁI
NGỪƠI ĐÀN BÀ XỨ CA-NA-AN:
Khi nghe người đàn
bà ngoại giáo xứ Ca-na-an kêu xin giúp con
gái của bà đang bị quỷ ám,
Đức Giê-su im lặng và khi môn đệ
cầu bầu cho bà thì Người giải
thích lý do là “chỉ được sai
đến với chiên lạc nhà It-ra-en mà
thôi”. Tuy nhiên các lời bà đối
đáp đã chứng tỏ bà có
một đức tin mạnh mẽ, nên cuối
cùng bà đã được Đức
Giê-su khen là có đức tin mạnh và đã ban cho bà
được như ý.
3.
CHÚ THÍCH:
- C 21-22: + Đức Giê-su lui về
miền Tia và Xi-đon: Tia va Xi-đon là hai thành phố của dân
ngoại. Khi âm thầm lui về miền đất
ngoại giáo này (x. Mc 7,24), có lẽ
Đức Giê-su muốn tránh sự dòm
ngó của nhóm Pha-ri-sêu, cũng như tránh
sự nồng nhiệt của quần chúng
muốn tôn Người lên làm vua sau phép lạ
nhân bánh ra nhiều (x. Ga 6,15). Ngoài ra, điều
này còn tiên báo: Vì dân Do thái đã
từ chối ơn cứu độ ưu tiên cho
họ, nên dân ngoại sẽ được
thừa hưởng ơn cứu độ
ấy. + “Lạy Ngài là Con Vua Đa-vít, xin
dủ lòng thương tôi !”: Sở dĩ
người đàn bà ngoại giáo biết
và tuyên xưng Đức Giê-su bằng danh
hiệu Con Vua Đa-vít là do bà đã ra
khỏi miền đất dân ngoại và
được nghe nhiều người Do Thái
truyền đạt đức tin về Đức Giê-su
(x. Mc 3,8).
- C 23-24: + Nhưng Người không
đáp lại một lời: Khi không đáp lại lời
cầu xin của người đàn bà
này, Đức Giê-su muốn thử để
biết về tình trạng đức tin của
bà, và thêm lòng tin cho bà. + Xin Thầy bảo
bà ấy về đi, vì bà ấy cứ
theo sau chúng ta mà kêu mãi !: Các môn
đệ muốn Đức Giê-su thỏa mãn
lời cầu xin để khỏi tiếp tục
bị quấy rầy. Còn Đức Giê-su lại
muốn chứng tỏ Người ban ơn cho ai
là còn tùy vào lòng tin yêu của họ. Ở đây không
những Người ban cho con gái bà khỏi
bị quỷ ám, mà còn ban cho chính bà đức
tin vào Người là điều kiện để bà được
hưởng ơn cứu độ. + Thầy chỉ
được sai đến với những
con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi:
Sinh thời, Đức Giê-su chỉ rao giảng cho
người Do Thái, là những
người được thừa kế
các lời hứa cho họ là con cái
Thiên Chúa (x Rm 9,5; 15,8). Do đó, khi sai các môn
đệ đi giảng đạo, Đức Giê-su
cũng chỉ giới hạn trong lãnh thổ dân
Ít-ra-en (x. Mt 10,5-6). Nhưng rồi thực tế
cho thấy: dân Do Thái đã từ chối
ơn ấy, nên cuối cùng họ đã bị
mất quyền ưu tiên vào Nước Trời (x. Cv
18,17).
- C 25-26: + “Lạy Ngài, xin
cứu giúp tôi”:
Người đàn bà tỏ ra kiên trì trong
lời cầu xin: xin một lần chưa
được, bà xin hai, rồi ba lần. Khi
cầu xin mà chưa được nhận
lời, bà vẫn bền đỗ chứ không
nản lòng bỏ cuộc (x Lc 18,1). + “Không nên lấy bánh
dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”:
Không nên lấy Nước Trời
được hứa ban cho con cái trong nhà
là dân It-ra-en, để đem cho người
ngoài là dân ngoại, là dân bị người Do thái khinh
khi như loài vật. Từ chó con ở
đây là để làm dịu bớt
sự khinh miệt theo quan điểm của dân Do thái.
- C 27-28: + Chó con: là con vật nuôi trong nhà
và được mọi người cưng
chiều. + Cũng được ăn những mảnh
vụn trên bàn chủ rơi xuống: Câu nói
của người đàn bà cho thấy bà
có lòng khiêm tốn. Bà công nhận dân Do thái
có quyền ưu tiên hơn dân ngoại trong chương
trình cứu độ. Điều này cho
thấy đức tin của bà thật vững
mạnh. + Này bà, lòng tin của bà mạnh
thật. Bà muốn sao thì sẽ
được vậy: Khi thấy
người đàn bà có lòng khiêm hạ
và phó thác cậy trông là biểu hiệu
của một đức tin chân chính, Đức Giê-su
đã khen đức tin của bà mạnh
mẽ và đã ban cho bà được như ý là
cho con gái bà được khỏi bệnh quỷ
ám.
4. CÂU
HỎI:
1)
Người đàn bà ngoại giáo kêu xin
Đức Giê-su bằng danh hiệu nào ?
Tại sao bà ta biết được danh hiệu
ấy ? 2) Tại sao Đức Giê-su làm ngơ
như không biết không nghe lời kêu xin khẩn
thiết của người đàn bà này ?
3) Các môn đệ yêu cầu Đức Giê-su
thuận theo ý người đàn bà
nhằm mục đích gì ? 4) Đức
Giê-su cho môn đệ biết sứ mệnh của
Người là gì ? 5) Tại sao Đức
Giê-su khen đức tin của người
đàn bà ngoại giáo và cuối cùng
đã ban theo ý bà xin ?
HỎI:
TẠI SAO CHÚA IM LẶNG TRƯỚC
NHỮNG LỜI CẦU XIN CỦA CHÚNG TA ?
ĐÁP: Khi ta cầu xin mà Chúa vẫn
im lặng không nhậm lời thường do
mấy nguyên nhân chính như sau:
+ Có thể Chúa đang
thử thách để xem đức tin của ta mạnh hay yếu ? Trưởng thành hay
ấu trĩ ? Ta cần noi gương người
đàn bà xứ Ca-na-an ngoại giáo trong Tin
Mừng hôm nay: Một là : phải kiên trì và không ngã lòng cậy trông:
Xin một lần chưa được, hãy xin thêm
nhiều lần nữa. Hai là cầu xin với lòng xác tín chắc
chắn Chúa sẽ ban sự tốt lành cho ta,
như Đức Giê-su phán: “Cứ xin thì
sẽ được, cứ tìm thì sẽ
thấy, cứ gõ cửa thì sẽ được
mở cho” (Mt 7,7).
+ Có thể lời cầu xin
của ta chỉ mang tính cá
nhân. Ta hãy xin cộng đoàn hợp ý
cầu nguyện thêm cho ta như lời Đức
Giê-su: “Nếu ở dưới đất, hai
người trong anh em hợp lời cầu xin
bất cứ điều gì, thì Cha Thầy,
Đấng ngự trên trời sẽ ban cho” (Mt 18,19).
Ta cũng cần xin các thánh trên trời và
các linh hồn trong chốn luyện hình cầu bầu
cùng Chúa cho ta, theo tín điều "Các
Thánh Cùng Thông Công".
+ Có thể lời cầu xin
của ta chưa khiêm tốn
đủ: Do ta phô trương lòng đạo
đức để tìm tiếng khen nơi
người đời (x. Mt 6,5-6). Có thể do ta
đòi Chúa phải ban ơn theo ý riêng của
ta, thay vì ta phải “xin vâng” theo ý Thiên chúa
như lời cầu của Đức Giê-su trong
vườn Cây Dầu: “Ba ơi ! Nếu
được, xin cho chén này rời
khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà
xin theo ý Cha” (Mt 26,39).
+ Có thể lời cầu xin
của ta còn thiếu hy
sinh: Muốn cho lời cầu xin được
chấp nhận, ta phải có lễ vật kèm theo là các việc
lành như xưng tội rước lễ, hy sinh
hãm mình, lòng tha thứ sẵn sàng làm
hòa với tha nhân như lời Đức Giê-su:
“Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước
bàn thờ, mà sực nhớ có
người anh em đang có chuyện bất bình
với anh, thì hãy để của lễ
đó lại trước bàn thờ, đi
làm hòa với người anh em đã,
rồi mới trở lại dâng lễ vật của
mình” (Mt 5,23-24).
+ Có thể ta xin những
điều có hại cho
phần rỗi mà ta không biết: Đừng
đòi Chúa phải ban theo ý mình, nhưng
hãy tin cậy vào lượng từ bi của
Chúa, Đấng hằng muốn ban ơn
cứu độ cho ta như Đức Giê-su:
“Vậy nếu anh em là những kẻ xấu,
mà còn biết cho con cái mình những
thứ tốt lành. Phương chi Cha anh em,
Đấng ngự trên trời. Người
sẽ ban những của tốt lành cho
những kẻ xin người” (Mt 7,7-11; Lc 11,13).
+ Có thể do ta cầu nguyện
với lòng ích
kỷ: Do ta chỉ xin những điều có
lợi cho mình mà hại cho người, như
hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an đã cùng mẹ đến xin
Đức Giê-su cho được ngồi hai bên tả
hữu của Thầy trong Nước Thầy
sắp thiết lập (x. Mt 20-21); hoặc có
thể ta đã xin Chúa thực hiện những điều
sai trái như hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an xin Thầy sai
lửa trời xuống thiêu hủy làng Sa-ma-ri
vì họ dám từ chối đón tiếp Thầy
trò vào ở trọ (x. Lc 9,53-54)… nên những
lời cầu xin ấy đã không đựơc Chúa
chấp nhận (x. Mt 20,23; Lc 9,55).
+ Có thể ta đã chú trọng xin
ơn vật chất thể xác liên quan đến tha nhân:
Có lợi cho ta nhưng lại bất lợi cho
người khác. Chẳng hạn xin Chúa cho ta buôn bán
thuốc đắt hàng, đang khi những bệnh nhân
lại xin Chúa ban sớm khỏi bệnh để khỏi
tốn tiền mua thuốc. Tốt nhất ta nên xin
những ơn tinh thần như kinh Lạy Cha: xin cho
danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, ý Cha
thể hiện, xin tha tội nợ, xin chớ để
phải sa chước cám dỗ. Về phần xác chỉ
xin cho hôm nay lương thực hằng ngày (x. Mt 6,9-14).
II. SỐNG LỜI CHÚA
1.
LỜI CHÚA: Một người đàn
bà Ca-na-an kêu lên rằng: “Lạy Ngài là Con
Vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi !”…
“Lạy Ngài xin cứu giúp tôi !” (Mt 15, 22a.25b).
Đức Giê-su đáp: “Này bà, lòng tin
của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì
sẽ được vậy” (Mt 15,28a).
2. CÂU
CHUYỆN:
1) TÌNH
YÊU VÀ ĐỨC TIN LUÔN ĐỒNG HÀNH
VỚI NHAU:
Trong tác phẩm: “Anh em nhà
Ka-ra-ma-dốp” (the Brothers Karamazov) của
Đớt-tốp-ki (Dostoevski) có kể câu
chuyện về một bà lão kia. Bà cảm
thấy đức tin của bà bị suy thoái
theo với sự suy yếu sức khoẻ
về thể xác. Ngày nọ bà đến
gặp một vị linh mục già tên là
DỐT-SI-MA (Zossima). bà đã tâm sự về
tình trạng đức tin của bà như sau:
“Thưa cha, kỳ này con thường hoài nghi
về sự hiện hữu của Thiên Chúa.
Không biết Người có quan tâm đến
hết mọi loài do Người dựng nên,
trong đó có con hay không ? Sau khi chết rồi con
sẽ đi đâu ? Ngoài thế giới
đời này còn có đời sau không
?…” Vị linh mục già chăm chú nghe bà
nói và cuối cùng ông đã trả
lời rằng: “thực ra chẳng có
cách nào chứng minh cụ thể về
những điều mà bà đang hoài nghi
kia. Tuy vậy tôi đề nghị bà hãy áp
dụng một phương pháp giúp bà luôn
vững tin vào những chân lý ấy”.
Bà lão ngạc nhiên hỏi: “Thưa cha, bằng
cách nào vậy ?” Vị linh mục liền
đáp: “Bằng tình yêu. Phải, Bà hãy
yêu thương người khác cách thành
thật. Càng yêu thương người khác
bao nhiêu thì bà lại càng vững tin vào
Thiên Chúa bấy nhiêu và sẽ tin vào đời
sau hơn. Càng yêu nhiều, thì đức tin
của bà càng lớn lên, và các
sự ngờ vực kia cũng tự nhiên
tan biến hết. Đấy là một phương
pháp đã được nhiều
người áp dụng và tất cả
đều chứng thực là rất
hữu hiệu để củng cố đức
tin”.
2)
TƯƠNG QUAN GIỮA HIỂU BIẾT
VÀ ĐỨC TIN:
Một luật sư luôn tự
hào về kiến thức uyên bác của mình. Một hôm ông
huênh hoang tuyên bố trước mặt đám đông như
sau : Chúng ta có trí khôn có thể hiểu biết suy luận,
nên chúng ta chỉ nên tin vào những điều mắt
thấy và trí khôn hiểu được mà thôi”.
Trong đám đông có một em nhỏ thông
thạo về giáo lý giơ tay xin phát biểu:
- Thưa luật sư.
Vậy là ông sẽ không tin những điều chưa thấy
và chưa hiểu phải không ạ ?
- Đúng thật như vậy.
- Vậy xin ông nói cho cháu biết
: ông có thể cử động được các ngón tay
của ông không và tại sao ông lại cử động
được chúng ?
- Ta có thể cử
động được các ngón tay của ta vì ta trông thấy
nó, hiểu biết sự vận hành của nó và ta ra
lệnh cho các ngón tay ấy cử động theo ý ta. Thế
thôi.
- Vậy ông có thể cử
động được đôi tai không, dù ông nhìn
thấy, hiểu biết sự vận hành của nó và ông cũng
ra lệnh cho nó cử động ?
Ông luật sư bí không thể
trả lời được câu hỏi ấy liền nói :
- Thằng nhỏ ngu ngốc
này lại đòi tranh cãi với ta hay sao ?
Nghe vậy mọi
người đều cười lên thích thú.
(Viết
theo “Tìm hiểu ít thắc mắc” của Trần công Hoán).
3) VÌ BỐ
EM CHÍNH LÀ THUYỀN TRƯỞNG ĐANG CẦM LÁI CON TÀU NÀY
:
Ông Byron, một thi sĩ
Anh, có viết một câu truyện như sau :
Hôm ấy, một con
tầu đang rẽ sóng lướt đi trên mặt
biển bao la. Phía chân trời xa, một luồng mây đen nổi
lên. Bầu trời quang đãng chẳng mấy chốc
đã bị mây đen phủ kín, rồi một cơn
giống tố ầm ầm kéo tới, sấm chớp nổ
vang ầm ầm. Mưa mỗi lúc một lớn, gió rít
ngày càng mạnh hơn. Các hành khách trên tàu đều bị hoảng
loạn kêu la thất thanh. Duy chỉ có một đứa
trẻ 8 tuổi cứ tiếp tục ngồi chơi trên ban
công, bình tĩnh nhìn con tầu đang chòng chành nghiêng
ngửa giữa muôn sóng to gió lớn như không có việc
gì xẩy ra chung quanh.
Thấy lạ ! Một anh thủy thủ đến
bên em và hỏi : “Này em bé kia. Em không sợ chết sao ?”
Em bé liền trả lời rằng: “Mà
tại sao em lại phải sợ, khi chính ba em là thuyền
trưởng cừ khôi nhất đang cầm lái của con
tầu này mà !”
Ước chi mỗi tín
hữu chúng ta đều có thể trả lời
được như em bé nói trên, khi chúng ta gặp phải
các cơn thử thách gian nan trong cuộc sống. Chúng ta sẽ
luôn an tâm vui sống dù đang gặp nhiều tai
ương tật bệnh : “Phúc bất trùng lai. Họa vô
đơn chí !”… Vì tin rằng chính Thiên Chúa là Cha chúng ta luôn quan
phòng gìn giữ chúng ta khỏi mọi nguy hại, che chở
chúng ta trong vòng tay yêu thương của Ngài, như Đức
Giê-su sđã dạy về tình thương của Chúa Cha: “Vậy nếu anh em vốn là những
kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình những của
tốt lành, phương chi Cha anh em, Đấng ngự trên
trời, lại không ban những của tốt lành cho
những kẻ kêu xin Người sao?” (Mt 7,11).
4) ĐỨC TIN ĐƯỢC TÔI LUYỆN NHỜ
THỬ THÁCH GIAN NAN:
Thánh nữ Mo-ni-ca luôn khóc lóc, ăn chay
và hãm mình để cầu xin cho đứa con hoang đàng
của bà là Au-gút-ti-nô được ơn sám hối. Bà là
một người phụ nữ bất hạnh vì có ông chồng
khô khan, và đứa con trai ăn chơi trác táng. Đã có
lần đức tin của bà bị lung lay và bà muốn
thôi không cầu xin nữa. Nhưng bà dã được giám
mục Am-brô-si-ô khuyên như sau: "Bà hãy yên tâm, đứa
con của bao giọt nước mắt sẽ không thể
bị hư mất".
Thực vậy, nhờ niềm tin
của người mẹ mà Thiên Chúa đã thay đổi
số phận của người con bà: Au-gút-ti-nô về
sau đã từ bỏ con đường tội lỗi
để sống tốt lành thánh thiện, đã từ bỏ
công danh sự nghiệp trần thế để tận
hiến cuộc đời phụng sự Thiên Chúa. Đã
không còn đi tìm thú vui thể xác bèo bọt để đi
tìm kiếm hạnh phúc tồn tại muôn đời là Nước
Trời đời sau.
5) THIÊN
CHÚA KHÔNG THIÊN VỊ NHƯNG BAN ƠN CỨU ĐỘ CHO
HẾT MỌI NGƯỜI:
Ngày
nọ, Chúa Giê-su cải trang đến thăm một
hội chợ Tôn giáo. Ngài thấy những người đứng
đầu các gian hàng đều tỏ thái độ hung hãn
và huênh hoang tuyên truyền về Tôn giáo của mình.
Tại quầy hàng của Do thái giáo,
người chủ quầy nói : "Đức Chúa là Thiên
Chúa duy nhất quyền năng, công minh và chỉ có dân tộc
Do thái mới được Ngài tuyển chọn làm dân
riêng. Ngoài dân Do thái ra, không có dân tộc nào khác được
Đức Chúa ban ơn cứu độ".
Tại quầy hàng của người
Hồi giáo, người bán hàng rêu rao : "Vạn tuế Thánh
A-la vĩ đại và đầy quyền năng và vạn
tuế Mô-ha-mét. Người ta chỉ được cứu
độ nếu vâng lời Tiên tri Mô-ha-mét là vị Tiên tri tối
cao và duy nhất của Thánh A-la".
Tại quầy hàng của người
Kitô giáo, thì trưng một biểu ngữ : "Thiên Chúa là Tình
Yêu và không có ơn cứu độ nào bên ngoài Giáo hội. Người
ta phải nhập vào Giáo hội mới được cứu
độ".
Trên đường ra về, một bạn
đồng hành hỏi Đức Giê-su : "Ngài đánh giá
thế nào về những điều người ta nói
trong Hội chợ Tôn Giáo vừa qua ?" Người trả
lời : "Ta không chủ trương tổ chức
Hội Chợ Tôn giáo này, và ta cảm thấy vô cùng xấu
hổ vì đã lỡ đến thăm viếng nó !!!”
6) THẾ
NÀO LÀ MỘT ĐỨC TIN PHÓ THÁC:
Cách đây ít lâu, báo chí tường thuật
lại một sự kiện: Vào một đêm nọ,
một đám cháy đã bùng lên từ nhà bếp của
một căn nhà. Bấy giờ ông bố bà mẹ đã
bế mấy đứa con trong nhà ra sân và buồn bã đứng
nhìn ngôi nhà đang cháy rất to, chứng kiến căn nhà
là kết quả của bao năm ăn tằn hà tiện
giờ đang bốc cháy. Bất chợt bà mẹ phát
hiện ra còn thiếu thằng con trai út năm tuổi nằm
ngủ ở tầng trên. Đứa bé này nghe tiếng báo
cháy và khói bốc vào phòng đã thức giấc và chạy ra
khỏi phòng về phía cầu thang xuống nhà. Nhưng khói
lửa lại đang từ cầu thang bốc lên khiến
em không thể xuống dưới nhà với gia đình, em đành
đứng khóc ngoài ban công lầu một. Cha mẹ em
hiểu rằng không thể liều mình vào trong nhà đang bốc
cháy như một lò lửa rất lớn. Bấy giờ cha
mẹ em thấy con đang đứng khóc bên ngoài ban-công.
Nhìn thấy con, ông bố đứng dưới sân hét to: “Con
mau nhảy xuống đi”. Đứa bé nhìn đâu cũng chỉ
thấy khóí lửa mịt mù và đang bị ho vì hít
phải khói độc. Em nghe thấy tiếng nói của
bố liền đáp: “Bố ơi, con không nhìn thấy bố”.
Ông bố lại quát lớn: “Bố đứng
dưới này nhìn thấy con rất rõ. Con hãy nhảy xuống
đi có bố đỡ”. Khi thấy lửa sắp cháy
tới nơi, em bé liền vâng lời nhảy xuống
đất và đã nằm an toàn trong vòng tay của bố,
vì ông đang đứng chờ đón nó ngay ở phía dưới.
Đứa bé trong câu chuyện trên chính
là hình ảnh của các tín hữu chúng ta hôm nay. Trong cơn cùng
khốn, chúng ta được nghe tiếng Chúa phán : “Anh em
đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”
(Ga 14,1). Chắc đã có lần chúng ta thưa : “Chúa ơi,
con chẳng nhìn thấy Chúa đâu cả”, và chúng ta tưởng
Chúa đã bỏ rơi mình rồi, mà không biết rằng
Chúa luôn ở bên chúng ta và sẵn sàng dang tay cứu giúp chúng
ta, như Người đã từng nói với các môn
đệ : “Cứ yên tâm. Chính Thầy đây. Đừng
sợ !” (Mc 6,50).
7) TÔI
MUỐN CHO CON TÔI ĐƯỢC SỐNG:
Câu truyện này xẩy ra vào
tháng 12 năm 1987. Một cơn động đất
đã xẩy ra ở Armenia thuộc Liên xô cũ đã giết
chết hàng ngàn người. Trong số những
người bị chôn dưới đống gạch
vụn có hai mẹ con bà Su-zan-na. Hai mẹ con đã
may mắn nằm lọt trong một khoảng trống
nhỏ khi cơn động đất làm sụp
đổ ngôi nhà đang ở. Tất cả
lương thực hai mẹ con có lúc này chỉ là một
hũ mứt nhỏ. Nhưng chẳng bao lâu hũ mứt
cũng đã hết sạch. Lúc đó đứa con 4
tuổi liền nói : ”Mẹ ơi, con khát quá”. Bà Su-zan-na
không biết phải tìm đâu ra nước cho con uống.
Rồi tình mẫu tử đã gợi cho bà một sáng
kiến táo bạo : bà dùng một miếng kính vỡ
cắt đầu ngón tay của mình cho máu chảy ra và
đưa vào miệng con cho nó mút. Một lúc sau
nữa nó lại kêu khát, bà lại cắt một
đầu ngón tay nữa. Cứ như thế cho
đến khi người ta đào bới tới nơi và
cứu thoát được hai mẹ con. Khi được
hỏi lý do tại sao bà làm điều nguy hiểm như
thế, bà mẹ đã trả lời như sau : ”Lúc đó
tôi nghĩ chắc mình sắp chết, nhưng tôi lại
muốn cho con tôi được sống”.
3. SUY
NIỆM:
Một người đàn
bà ngoại giáo Ca-na-an có đứa con
gái bị quỷ ám đã đi tìm
Đức Giê-su để xin Người
chữa cho con gái bà được lành
bệnh. Nhờ đức tin mạnh mà bà
đã được Người ban như
ý. Vậy để lời cầu xin của
chúng ta xứng đáng được
Chúa chấp nhận, chúng ta cần phải tin
cậy cầu nguyện như thế nào ?
1)
CẦN CẦU NGUYỆN VỚI MỘT ĐỨC TIN
TRƯỞNG THÀNH:
Người đàn bà này đã kêu to
lên để xin Đức Giê-su thương
cứu con gái bà đang bị quỷ ám.
Bà nói: “Lạy Ngài là Con Vua Đa-vít,
xin dủ lòng thương tôi ! Đứa con
gái tôi bị quỷ ám khổ sở
lắm !” Nhưng Đức Giê-su im lặng
không đáp lại một lời ! (22-23).
Thực ra không phải Người thờ ơ
lãnh đạm trước nỗi khổ đau
của người khác. Nhưng Người
muốn thử thách để xem đức tin
của bà ra sao ? Nếu bà không xin nữa
thì đức tin nơi bà chỉ là
thứ đức tin vụ lợi: “Tin Chúa
để được ơn theo ý riêng mình” như
người ta thường nói: “Theo đạo
lấy gạo mà ăn”; “Cúi đầu lạy
Chúa Ba Ngôi. Cho tôi được vợ tôi thôi
nhà thờ !”… Ngày nay nhiều lần người
tín hữu chúng ta cũng cầu xin và cũng gặp
phải sự im lặng của Chúa như
thế. Khi ấy, có người sẽ biểu lộ
sự hồ nghi qua lời than trách: “Thiên Chúa có
hiện hữu hay không ? Ngài có nghe thấy lời
cầu xin của con không ? Có nhìn thấy
những khó khăn của con và ra tay
cứu giúp không ?”.
2)
CẦN MỘT ĐỨC CẬY VỮNG VÀNG: Người đàn bà Ca-na-an
trong Tin Mừng hôm nay đã không ngã lòng trông
cậy, dù bị Đức Giê-su im lặng như
đang giả điếc làm ngơ. Bà luôn
vững tâm và kiên trì nhiều lần kêu xin
Người thương cứu giúp: “Lạy
Ngài, xin cứu giúp tôi !” (23b-25) Cuối cùng
bà đã được như ý. Nhiều
tín hữu chúng ta khi cầu xin mà không
được nhậm lời ngay, đã vội chán
nản ngã lòng trông cậy, thôi không cầu
nguyện nữa và “hữu sự vái tứ
phương”: chạy đến với thầy
bói, thầy bùa ngải hay làm những
điều mê tín dị đoan khác…
3) CẦN
MỘT ĐỨC MẾN KHIÊM TỐN: Nghe Đức Giê-su trả
lời: “Không nên lấy bánh dành cho con cái
mà ném cho lũ chó con”, bà ta thưa:
“Thưa ngài, đúng thế, nhưng mà lũ
chó con cũng được ăn những
mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Bà vì
thương con sẵn sàng chịu đựng
những lời nói miệt thị của dân Do Thái,
vì họ luôn coi dân ngoại như loài chó
hạ cấp. Chính sự khiêm tốn của bà đã
khiến bà được Chúa Giê-su yêu mến
khen ngợi và ban cho bà được như ý.
Như vậy, tin không phải là
đòi Chúa luôn phải ban ơn theo ý riêng mình,
nhưng do lòng yêu mến thôi thúc, chúng ta hãy nêu ra ý cầu nguyện
cho mình và tha nhân, phó thác để Chúa toàn quyền quyết
định ban hay không ban, và ban như thế nào, rồi
sẵn sàng xin vâng ý Chúa, vì biết rằng mọi sự
xảy ra đều tốt và hữu ích cho phần rỗi
đời đời của ta.
4) TƯƠNG
QUAN GIỮA ĐỨC MẾN VÀ ĐỨC TIN:
- Một điều hiển nhiên mà ta
có thể khẳng định, đó là tình yêu thương của
người đàn bà ngoại giáo dành cho con thật dạt
dào. Vì thương con, chị ta đã kiên trì đi theo kêu
xin Đức Giê-su. Cũng vì thương con, chị đã
vượt qua sự tự ái, đồng thời bày
tỏ lòng tin khiêm nhu: "Vâng, thưa Ngài, dẫu sao, chó con
cũng được hưởng những mảnh
vụn từ bàn rơi xuống" (Mt 15,27).
- Như vậy: tin phát sinh từ con tim
hơn là từ khối óc. Quả thật. lịch sủ
Hội Thánh minh chứng rằng nhiều người
đã có đức tin do cảm nhận một tình
thương, do nhận được một nghĩa
cử cao đẹp của một ai đó hơn là vì
biết giáo lý. Xét theo chiều ngược lại, khi
niềm tin của một tín hữu bị ngả nghiêng,
chao đảo hay khô khan nguội lạnh, thường là do
đời sống luân lý bị sa sút hơn là do sự thiếu
hiểu biết đức tin. Nói như vậy không có
nghĩa loại trừ hay giảm nhẹ vai trò quan
trọng của lý trí trong việc tìm hiểu giáo lý, gìn
giữ và củng cố đức tin của mình.
- Trong thời gian rao giảng tin
mừng Nước Trời, Đức Giê-su cũng luôn
biểu lộ tình thương của Người qua
việc thi ân giáng phúc trước, rồi mới mời
gọi người ta tin theo Người. Phép lạ hóa bánh
ra nhiều nuôi năm ngàn người ăn no, cũng
như chữa lành người mù từ thuở mới
sinh... là một minh chứng ( Ga 6,35; 9,35 ). Là những
người đã có đức tin, ước gì chúng ta
biết củng cố niềm tin bằng những hành
động bác ái yêu thương, như lời thánh Gia-cô-bê
dạy: "Đức tin không có việc làm là đức
tin chết" (Gc 2,17 ). Việc làm nói đây chính là các
việc bác ái yêu thương, khiêm nhường phục
vụ những kẻ nghèo hèn bệnh tật và đau
khổ.
Có nhiều cách thế để
thực thi sứ mạng loan báo Tin Mừng, tuy nhiên phương
cách thiết thực và hữu hiệu nhất, là quảng
đại chia sẻ tinh thần vật chất cho người
nghèo, bệnh tật và bất hạnh… Việc bác ái phát
xuất từ một tấm lòng yêu thương chân
thật của chúng ta sẽ có sức thuyết phục
rất lớn như lời Chúa dạy: “Ánh sáng của anh
em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ,
để họ thấy những công việc tốt
đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng
ngự trên trời” (Mt 5 16).
4.
THẢO LUẬN: 1) Khi gặp tai ương họan
nạn, bạn thường cầu xin với Thiên
Chúa, với Chúa Giê-su hay với
Đức Mẹ và các thánh làm
phép lạ ? 2) Qua kinh Lạy Cha, bạn thấy
lời cầu nguyện do chính Đức Giê-su
dạy có những đặc điểm
nào ? 3) Từ nay bạn quyết tâm sẽ cầu
nguyện ra sao từ khi thức dậy ban sáng
đến lúc đi ngủ ban đêm ?
5.
NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA CHA NHÂN ÁI. Con xin
cảm tạ Cha vì biết bao hồng ân Cha đã
đổ xuống trên con. Rất nhiều ơn Cha ban
mà con cứ tưởng là chuyện
tự nhiên như: khí trời con thở,
cơm bánh con ăn, áo quần con mặc,
đồ dùng con sử dụng… Thế mà con
lại đau khổ khi không được Cha ban theo
điều con xin, hay những khi Cha để con
gặp phải những sự rủi ro trái
ý. Con đã quên rằng đời con luôn
được Cha bao bọc bằng muôn ngàn
hồng ân lớn lao cả hồn lẫn xác.
- LẠY CHA. Con xin cảm tạ Cha
vì những gì Cha đã không ban, vì con
tin chắc rằng Cha biết điều ấy
có hại cho phần rỗi đời
đời của con, hoặc vì Cha muốn ban
nhiều ơn khác có ích cho phần rỗi
của con hơn. Xin cho con luôn vững tin vào
tình thương quan phòng chở che của Cha giống như
“gà mẹ ấp ủ gà con dưới
cánh”. Nhờ đó khi vui cũng như lúc
buồn, khi thành công cũng như lúc thất
bại, khi đuợc may lành như ý cũng
như khi bị những điều trái ý
cực lòng... Xin cho con luôn biết cậy trông và phó
thác trọn vẹn nơi tình thương quan
phòng của Cha.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ)
XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM
|