ĐỨC
MẸ – NGƯỜI TIÊU DIỆT TÀ
THUYẾT
Trong
tông hiến “Pascendi Dominici Gregis”, Thánh
GH Piô X đã cầu xin Đức Trinh Nữ
Maria với danh hiệu “Người Tiêu
Diệt Các Tà Thuyết”. Ngài sử
dụng danh hiệu này cho Người Nữ
Tỳ khiêm nhu của thành Nadarét được
lấy từ lễ kính Đức Mẹ. Danh
hiệu này có ý nghĩa quan trọng
trong tông hiến “Pascendi Dominici Gregis”,
được viết năm 1911 để chống
lại chủ nghĩa hiện đại (modernism),
đó là “sự tổng hợp của
các tà thuyết”. Đối mặt
với sự khủng hoảng đó, thất
là chính xác khi tôn xưng Đức
Mẹ là Người Tiêu Diệt Các
Tà Thuyết. Danh hiệu này vẫn được
áp dụng. Thật vậy, danh hiệu này
mô tả điều gì đó luôn
luôn đúng về Đức Mẹ –
và ngày nay có thể còn cấp
bách hơn nữa.
Nhưng
bằng cách nào? Đức Mẹ tiêu
diệt các tà thuyết thế nào?
Đức Mẹ chưa bao giờ giảng chống
lại sai lầm mà? Đức Mẹ chưa
bao giờ kết tội hoặc phạt vạ
tuyệt thông bất cứ ai kia mà? Đức
Mẹ cũng chưa hề có bài nào
trình bày tại hội nghị thần
học, thế thì Đức Mẹ hành
động bằng cách nào?
Trước
tiên, hãy nhìn vào sự nhiệt
thành mà Đức Mẹ gợi hứng.
Đó là dấu hiệu của người
bảo vệ đức tin mà họ dành
lòng sùng kính cho Đức Mẹ. Từ
bài viết của Thánh Irênê chống
lại các tà thuyết hồi thế kỷ
II tới việc giảng thuyết của Thánh
Đa-minh chống lại tà thuyết
Albigensians [*] hồi thế kỷ XII, các giáo
huấn của Thánh Gioan Phaolô II chống
lại các sai lầm trong thời hiện đại
của chúng ta, việc tôn sùng này
luôn là lời mời gọi đối với
những người bảo vệ đức tin.
Theo một trong các ý kiến phản biện
của Công giáo, những người này
trở thành những người mạnh mẽ
bảo vệ đức tin bằng cách trở
nên con cái của Đức Mẹ. Lòng
sùng kính Đức Mẹ đem lại sự
thuần khiết cho tâm hồn và do đó
cũng làm cho trí óc minh bạch.
Chúng
ta cũng có thể cậy nhờ sự cầu
bầu của Đức Mẹ. Chỉ khi nào
vào cõi vĩnh hằng thì chúng ta
mới biết điều đó có tác
dụng như thế nào. Trong khi đó,
chúng ta biết chắc chắn rằng Giáo
Hội đã được giải thoát
khỏi sự tối tăm và lầm lạc
bởi vì các tín nhân đã
kêu cầu Đức Mẹ khi cần thiết.
Nhưng
hơn hết, Đức Mẹ là Người
Tiêu Diệt Các Tà Thuyết bởi
nhân đức của Đức Mẹ. Đó
là sự thật về chính Đức Mẹ
– hoặc sự thật về những gì
Thiên Chúa đã làm cho Đức
Mẹ, những điều đó đã
chế ngự các tà thuyết. Đức
Mẹ đã bảo vệ chân lý về
Thiên Chúa và con người.
Chúng
ta thấy xuất hiện điều này từ
thời kỳ đầu của Giáo Hội.
Khi Công Đồng Êphêsô long trọng
công bố Đức Maria là
Người-mang-Thiên-Chúa (Θεοτόκος
– Theotókos), đó là cách bảo
vệ thần tính của Đức Kitô.
Nestorius đã không chấp nhận Đức
Maria là Mẹ Thiên Chúa, điều này
cảnh báo các giáo phụ đối
với lạc thuyết của ông ta về Con
Yêu Dấu của Đức Mẹ. Tuyên bố
sự thật về Đức Maria là xác
định sự thật về Chúa Giêsu
Kitô. Thế kỷ 19, ĐGH Piô IX đã
long trọng công bố tín điều Đức
Mẹ Vô Nhiễm để bảo vệ sáng
kiến và ân sủng của Thiên Chúa
chống lại sự mê đắm về tính
hiện đại với sự khôn khéo
của con người và tham vọng tự trị
của con người.
Chúng
ta thấy một chiều kích khác về
việc Đức Mẹ là Người Tiêu
Diệt Các Tà Thuyết: Đức Mẹ
bảo vệ chân lý con người. Đặc
biệt là, qua việc lên trời, Đức
Mẹ tiết lộ và tiêu diệt sự
sai lầm làm hại chúng ta ngày nay:
sự sai lầm về thân thể con người.
Tà thuyết ngày nay, đa số trong thuyết
Ngộ Đạo mới về ý thức hệ
giới tính (Gnosticism of gender ideology), là bản
tóm lược của sự sai lầm ngày
xưa tái diễn. Còn hơn là biết
con người là một linh hồn hiện
thân, chúng ta coi con người như một
linh hồn ngẫu nhiên có một thân
xác (hoặc “bị kẹt” trong một
thân xác).
Như
vậy, là con người nghĩa là có
một linh hồn – và liên quan thân
thể như bạn muốn. Thân thể trở
nên đồ vật, dụng cụ, vật sở
hữu, sự nguyền rủa, v.v... Người
ta nuông chiều nó khi khỏe mạnh, và
loại bỏ nó khi không khỏe. Thân
thể chẳng có nghĩa lý gì và
cũng chẳng cho bạn biết gì về
chính bạn. Bạn có thể là một
vật về thể lý, và là một
vật khác về tinh thần.
Đây
là sai lầm thâm căn cố đế
bởi vì tất cả chúng ta đều
kinh nghiệm về sự sự tan rã của
thân xác và tâm hồn ở mức
độ nào đó. Vì tội của
Adam và Eva, chúng ta mất tính nguyên
vẹn nguyên thủy, kể cả sự kết
hợp hoàn hảo của thân thể và
linh hồn mà Thiên Chúa đã tạo
dựng ngay từ thuở ban đầu. Linh hồn
của chúng ta không phải lúc nào
cũng hài hòa với “Brother Ass”
(cách nói của Thánh Phanxicô Assisi
để chỉ thân xác, ví như
“con lừa” vậy). Sự khác nhau là
sự bất tiện này được nâng
lên tới mức ý thức hệ, và
ý thức hệ đó bị áp đặt
bởi văn hóa và những người
có quyền hành.
Được
triệu về trời, Đức Mẹ tiết
lộ sự thật và tiêu diệt các
sai lầm. Ở trên trời, các thánh
còn chờ đợi ngày cuối cùng
khi thân xác họ sống lại và tái
kết hợp với linh hồn của họ. Tuy
nhiên, Đức Mẹ lên trời cả
hồn và xác rồi, tận hưởng
phúc lành viên mãn. Trong sự viên
mãn đó, Đức Mẹ dạy về
cách kết hợp cần thiết của xác
và hồn.
Sự
lên trời của Đức Mẹ phải
được hiểu là tình trạng với
cả sự sống trọn vẹn của Đức
Mẹ. Nhờ ơn vô nhiễm, Đức
Maria không mắc tội Nguyên Tổ và
hệ lụy của nó. Đức Mẹ không
phải chịu sự đối lập của
thân thể và linh hồn như chúng
ta phải chịu giằng co. Tình trạng trọn
đời đồng trinh xác định và
tiết lộ sự kết hợp hoàn hảo
này. Hồn và xác của Đức
Mẹ hoàn hảo đếm mức thân
thể tham dự và biểu lộ sự thuần
khiết tâm linh của Đức Mẹ đối
với Thiên Chúa.
Trong
ân sủng được trao ban cho Eva Mới –
tức là cuộc lên trời của Đức
Mẹ, chúng ta được nhắc nhở
rằng chúng ta được tạo dựng
để công bố những gì mà ân
sủng của Thiên Chúa hoàn tất.
Chúng ta biết rằng Thiên Chúa tạo
dựng chúng ta thành sự kết hợp
của thân xác và linh hồn. Thân
xác và linh hồn của con người là
một, và xã hội xung quanh sự đối
lập của chúng ta trái ngược với
điều tốt. Hơn nữa, ân sủng
của Đức Kitô giao hòa chúng ta
với Thiên Chúa, do đó cũng giao
hòa với chính chúng ta. Chúng ta
tìm thấy linh dược chữa lành qua
các bí tích và lời cầu
nguyện.
MARIA
ASSUMPTA, ORA PRO NOBIS – LẠY ĐỨC MẸ
MÔNG TRIỆU, XIN CẦU CHO CHÚNG CON.
Lm
PAUL SCALIA
TRẦM
THIÊN THU
(chuyển ngữ từ TheCatholicThing.org)
Lễ
Đức Mẹ Mông Triệu, 15-8-2017
------------------------
[*]
Albigensians
(hoặc Albigensianism): Phong trào Kitô giáo
được coi là hậu duệ thời
trung cổ của Mani giáo (Manichaeism) ở miền
Nam nước Pháp hồi thế kỷ XII và
XIII, có đặc tính của thuyết nhị
nguyên (đồng hiện hữu của hai quy
luật đối nghịch là Thiện và
Ác). Thuyết này bị kết án là
tà thuyết thời Tòa án Dị giáo
(Inquisition, syn: Catharism).
|