ĐỨC
MẸ TUYẾT
Trước
khi đọc bài này, bạn hãy trả
lời thật lòng: “Bạn
dùng tài sản Chúa đã trao cho
bạn như thế nào? Nếu bạn không
có con cái để thừa kế, bạn
sẽ trao tài sản cho ai?”.
Bạn không thể trả lởi hay khó
trả lời?
Đây
là câu chuyện trích từ cuốn “Marian
Apparitions and Devotions” (Đức Mẹ Hiện
Ra và Lòng Sùng Kính) của nữ
tu Mary Francis LeBlanc.
Chuyện
kể về hai vợ chồng đạo đức
sống tại Rôma hồi thế kỷ IV. Tên
người chồng là John, nhưng người
ta không nói tên người vợ. Họ
sung túc với nhiều của cải nhưng
hạnh phúc của họ không trọn vẹn.
Họ không có con cái để chia sẻ
của cải và đức tin. Họ cầu
xin có con nhưng lời cầu của họ
không được chấp nhận.
Lúc
tuổi già, họ quyết định thừa
kế tất cả cho Đức Mẹ. Họ tha
thiết cầu nguyện với Đức Mẹ,
xin Đức Mẹ cho họ thấy dấu chỉ
Đức Mẹ có nhận thừa kế hay
không. Vào đêm ngày 4-8, Đức
Mẹ hiện ra với hai vợ chồng và
cho họ biết Đức Mẹ muốn có
một nhà thờ xây trên Đồi
Esquiline (một trong bảy ngọn đồi tại
Rôma) ngay tại nơi Đức Mẹ đã
chỉ định bằng tuyết. Đức Mẹ
cũng hiện ra với ĐGH Libêriô (giáo
hoàng thời đó, 352-366) và trao cho
ngài thông tin tương tự về nhà
thờ.
Sáng
hôm sau, ngày 5-8, người ta ngạc nhiên
thấy tấm thảm tuyết trong suốt và
lấp lánh trong ánh nắng trên Đồi
Esquiline. Hai vợ chồng vội đi tới đó.
ĐGH Libêriô cũng tổ chức một
cuộc rước long trọng. Lịch sử cho
thấy rằng tuyết phủ đầy khu đất
xây nhà thờ. Sau khi đóng cọc
mốc khuôn viên nhà thờ thì
tuyết tan hết.
Việc
xây dựng nhà thờ bắt đầu
ngay sau đó. Đền Thờ Đức Mẹ
đã được ĐGH Libêriô
thánh hiến năm 360.
Người
ta nói rằng đó là nhà thờ
Công giáo lớn nhất dâng kính
Đức Mẹ. Vì kích cỡ rộng
lớn và vẻ lộng lẫy nguy nga khác
thường nên được gọi là
Đền Thờ Đức Bà Cả. Người
ta cũng gọi đền thờ này với
các tên gọi khác: Nhà thờ Đức
Mẹ Tuyết, Nhà thờ Libêriô (để
tưởng nhớ ĐGH Libêriô), và
Nhà thờ Đức Mẹ Hang Đá –
vì có một phần máng cỏ của
Chúa Giêsu Hài Đồng được
Thánh Helena đem tới.
Phần
máng cỏ này được đặt
trong chiếc hộp bằng vàng. Bên trong
phần máng cỏ này, Thánh Helena còn
mang tới Rôma một bức hình Đức
Mẹ bế Chúa Con được cho là
Thánh Luca đã vẽ trên gỗ tuyết
tùng (cedar). Bức hình này được
ĐGH Libêriô thấy xứng đáng
đặt tại Đền Thờ Đức Bà
Cả. Dân thành Rôma rất sùng
kính Đức Mẹ. Bất kỳ khi nào
Rôma bị tai ương, họ đều rước
bức hình này. Và Đức Mẹ
đã chứng tỏ là Đấng Bảo
Trợ. Ngày nay hình này được
gọi là “Đức Mẹ Bảo Trợ
Rôma” (Our Lady Protectress of Rome), hoặc “Đức
Mẹ Phù Hộ Rôma” (Help of the Roman
People).
Qua
nhiều thế kỷ, các Đức giáo
hoàng đã coi đó là ưu tiên
của Đền Đức Mẹ. Đặc điểm
nguyên thủy của đền thờ này
đã được gìn giữ dù có
nhiều lần tu sửa – như vàng
nguyên thủy do Christopher Columbus (Kha Luân Bố,
người phát hiện Mỹ châu) đã
đem từ Hoa Kỳ tới. Nhà nguyện
Thánh Thể do ĐGH Sixtô V xây dựng
là một trong các đền thờ lộng
lẫy nhất Rôma. Nhà nguyện Thánh
Phaolô do ĐGH Phaolô V xây dựng là
ngai của Đức Mẹ với những viên
đá quý khiến nó thành nhà
nguyện phong phú nhất Rôma. Mặt tiền
Đền Thờ Đức Bà Cả được
thêm hồi thế kỷ XVIII.
Đầu
tiên, lễ Đức Mẹ Tuyết chỉ
được cử hành tại đền
thờ này. Hồi thế kỷ XIV, lễ này
được mở rộng toàn TP Rôma.
Cuối thế kỷ 17, ĐGH Piô V phổ cập
lễ này tới toàn cầu. Hằng năm,
ngày 5-8 là dịp kỷ niệm cung hiến
Đền Thờ Đức bà Cả. Những
cánh hoa hồng được thả xuống
như mưa từ trên trần nhà để
nhớ lại mưa tuyết kỳ lạ đã
chỉ định nơi xây dựng đền
thờ và ấn định khuôn viên
đền thờ. Mưa hoa hồng cũng mang ý
nghĩa Đức Mẹ ban ơn cho con cái.
Ngày 1-11-1954, ĐGH Piô XII đã đặt
một vương miện lên đầu Đức
Mẹ, tôn vinh Đức Mẹ là Đấng
Bảo Vệ Rôma, giữa những tiếng hô
vang của mọi người: “Chúc
tụng Nữ vương!”.
ĐGH Piô XII thiết lập lễ Đức
Maria Nữ Vương Trời Đất là
ngày 22-8 hằng năm, Tông thư Ad
Cœli Reginam (ĐGH Piô XII, 1954) cũng ấn
định ngày 22-8 là lễ Đức
Maria với tước hiệu Đức Mẹ
Tuyết.
NORA
V. CLEMENTE-ARNALDO
TRẦM
THIÊN THU
(chuyển ngữ từ all-about-the-virgin-mary.com)
|