TỪ
MẪU
Có
Con là có Mẹ, có Mẹ là có
Con. Mẹ là tất cả của Con, và
Con là tất cả của Mẹ. Đời
thường cũng vẫn như vậy! Chúng
ta có người-mẹ-trần-gian là cảm
thấy hạnh phúc lắm rồi, chúng
ta còn hạnh phúc tột cùng vì
có người-mẹ-tâm-linh là Đức
Trinh Nữ Maria.
Kinh
cầu Đức Bà liệt kê nhiều
điều về Đức Maria: “Đức
Bà là Tòa Đấng Khôn Ngoan, Đức
Bà như Hòm Bia Thiên Chúa, Đức
Bà là Cửa Thiên Đàng, Đức
Bà như Sao Mai sáng,…”.
Có lẽ Đức Mẹ là người
được tôn xưng bằng nhiều danh
hiệu nhất, không chỉ vì Đức
Mẹ là Mẹ Thiên Chúa mà còn
vì Đức Mẹ trọn hảo. Đức
Mẹ thật cao trọng nhưng lại rất
khiêm nhường, chỉ dám nhận mình
là “nữ tỳ của Chúa” (Lc
1:38).
Sách
Huấn Ca cho biết: “Đức
Khôn Ngoan tự biểu dương và hãnh
diện ở giữa dân mình. Khôn ngoan
lên tiếng trong đại hội của Đấng
Tối Cao và hãnh diện trước quyền
uy của Người” (Hc
24:1-2). Đức khôn ngoan biểu hiện Thiên
Chúa, vì Ngài là Đấng Khôn
Ngoan. Sách Huấn Ca nói rõ: “Duy
có mình Ta đi vòng cả bầu trời
và rảo bước khắp vực sâu
thăm thẳm. Trên sóng biển, trên
toàn cõi đất, trên mọi nước
mọi dân, Ta nắm trọn chủ quyền.
Giữa chúng hết thảy, Ta tìm chốn
nghỉ ngơi, xem có gia nghiệp của ai để
Ta cư ngụ”
(Hc 24:5-7). Sự khôn ngoan rất quan trọng,
được coi là một nhân đức.
Thánh vương Sa-lô-môn đã
biết mơ ước được ơn khôn
ngoan (1 Sbn 22:12), rồi xin Chúa ban cho sự khôn
ngoan và hiểu biết (2 Sbn 1:10) chứ không
xin gì khác. Vì thế, “Thiên
Chúa cho vua Sa-lô-môn được dồi
dào khôn ngoan, thông thạo, và một
trái tim bao la như cát ngoài bãi
biển” (1 V 5:9).
Đức
Maria là Ngai Tòa của Đấng Khôn
Ngoan, là Nhà Tạm đầu tiên từ
khi “xin vâng”, và Đức Mẹ
được mệnh danh là Theotókos
(Θεοτόκος), nghĩa
là Người-Mang-Thiên-Chúa. Biết
xin vâng là sự khôn ngoan của Trinh Nữ
Maria.
Nói
về đức khôn ngoan, sách Huấn Ca
cho biết chi tiết: “Ta
đâm rễ sâu giữa một dân hiển
hách, trong phần riêng của Đức
Chúa, cũng là sản nghiệp của
Người. Ta đã vươn lên tựa
cây bá hương vùng Li-băng, tựa
cây trắc bá núi Khéc-môn. Ta
đã vươn lên như cây chà
là ở Ên Ghe-đi, như những khóm
hồng ở Giê-ri-khô, như cây ô-liu
xanh tốt giữa cánh đồng. Như cây
tiêu huyền, Ta đã vươn lên.
Như cây quế, như tước sàng,
Ta nức hương ngào ngạt, Ta toả
hương thơm ngát như mộc dược
quý, như phong tử hương, mã não,
an tức hương, như khói hương
nghi ngút trong lều, Ta vươn nhánh ra
như cây nhựa điều, nhánh của
Ta là nhánh vinh quang tươi đẹp”
(Hc 24:12-16).
Sự
khôn ngoan thật là cao xa, sâu thẳm,
bao la và vô cùng: “Người
đầu tiên chẳng biết hết khôn
ngoan, kẻ cuối cùng cũng không hiểu
thấu được. Vì tư tưởng
của khôn ngoan rộng hơn đại dương,
ý định của khôn ngoan sâu hơn
vực thẳm. Phần tôi, tôi như kênh
đào chảy từ sông lớn, như
con lạch dẫn nước tới địa
đàng”
(Hc 24:28-30). Sự khôn ngoan thật kỳ diệu,
nhưng phải là sự khôn ngoan từ
Thiên Chúa, chứ sự khôn ngoan của
loài người chẳng nghĩa lý gì.
Thánh Phaolô đã so sánh: “Cái
điên rồ của Thiên Chúa còn
hơn cái khôn ngoan của loài người,
và cái yếu đuối của Thiên
Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của
loài người”
(1 Cr 1:25).
Thi
sĩ Paul Éluard (1895-1952, người Pháp,
tên thật là Eugène Émile Paul
Grindel) đã so sánh: “Sự
khôn ngoan khiến người ta tồn tại,
còn sự đam mê khiến người ta
sống”.
Tất nhiên chỉ hiểu theo nghĩa đời
thường, nhưng ở một “góc độ”
nào đó, cũng có lý. Ngày
xưa, bà An-na cũng đã khôn ngoan
khi bà cầu nguyện và nói: “Tâm
hồn con hoan hỷ vì Đức Chúa, nhờ
Đức Chúa, con ngẩng đầu hiên
ngang” (1 Sm 2:1a).
Thiên
Chúa hiền lành và khiêm nhường,
nên Ngài hạ bệ bất kỳ ai dữ
tợn và kiêu căng: “Cung
nỏ người hùng bị bẻ tan, kẻ
yếu sức lại trở nên hùng dũng.
Người no phải làm mướn kiếm
ăn, còn kẻ đói được an
nhàn thư thái. Người hiếm hoi thì
sinh năm đẻ bảy, mẹ nhiều con lại
ủ rũ héo tàn”
(1 Sm 2:4-5). Ý tưởng này cũng được
Đức Maria đề cập trong bài
Magnificat khi đến thăm Chị Ê-li-sa-bét
(Lc 1:46-55).
Thiên
Chúa toàn năng, mọi sự đều
có thể đối với Ngài. Ngài
là Đấng Tự Hữu và Hằng
Sinh, Ngài là Tạo Hóa vì Ngài
tạo dựng muôn loài, nghĩa là
Ngài có mọi quyền trên trời và
dưới đất: “Đức
Chúa là Đấng cầm quyền sinh tử,
đẩy xuống âm phủ rồi lại kéo
lên. Đức Chúa bắt phải nghèo
và cho giàu có, Người hạ xuống
thấp, Người cũng nhắc lên cao. Kẻ
mọn hèn, Chúa kéo ra khỏi nơi
cát bụi, ai nghèo túng, Người
cất nhắc từ đống phân tro, đặt
ngồi chung với hàng quyền quý, tặng
ngai vinh hiển làm sản nghiệp riêng.
Vì nền móng địa cầu là
của Đức Chúa, Người đặt
cả hoàn vũ lên trên”
(1 Sm 2:6-8). Tuy nhiên, Thiên Chúa dùng
quyền để nâng đỡ, yêu thương
và cứu thoát chúng ta, chứ Ngài
không dùng quyền để “hành”
chúng ta như phàm nhân chúng ta vẫn
thường áp dụng, và khoái làm
như vậy.
Đức
Mẹ hẳn là người điềm đạm
và trầm tính, bởi vì Đức
Mẹ luôn “ghi nhớ mọi kỷ niệm
và suy đi nghĩ lại trong lòng”
(Lc 2:19). Đức Mẹ im lặng để cầu
nguyện và kết hiệp mật thiết với
Thiên Chúa. Đời sống cầu nguyện
rất quan trọng đối với các Kitô
hữu, vì thế chúng ta phải không
ngừng học tập và noi gương Đức
Mẹ.
Thánh
Phaolô nói: “Chúc
tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức
Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Trong Đức
Kitô, từ cõi trời, Người đã
thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn
vàn ơn phúc của Thánh Thần.
Trong Đức Kitô, Người đã chọn
ta trước cả khi tạo thành vũ trụ,
để trước thánh nhan Người, ta
trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ
tình thương của Người. Theo ý
muốn và lòng nhân ái của
Người, Người đã tiền định
cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu
Kitô, để ta hằng ngợi khen ân sủng
rạng ngời, ân sủng Người ban tặng
cho ta trong Thánh Tử yêu dấu”
(Ep 1:3-6). Chắc chắn ca tụng Chúa phải
là nhiệm vụ quan trọng và là
bổn phận hàng đầu của chúng
ta. Đức Mẹ đã im lặng để
hoàn tất công việc này.
Để
minh chứng, Thánh Phaolô giải thích:
“Thiên
Chúa là Đấng làm nên mọi
sự theo quyết định và ý muốn
của Người, đã tiền định
cho chúng tôi đây làm cơ nghiệp
riêng theo kế hoạch của Người, để
chúng tôi là những người đầu
tiên đặt hy vọng vào Đức
Kitô, chúng tôi ngợi khen vinh quang Người”
(Ep 1:11-12). Đức Mẹ đã bối rối
và rất ngạc nhiên khi Sứ thần
Gáp-ri-en báo tin được tuyển chọn
làm Mẹ Thiên Chúa, nhưng Đức
Mẹ đã vui mừng chấp nhận mà
không chút so đo, bởi vì Đức
Mẹ hoàn toàn tin vào sự quan phòng
và tiền định của Thiên Chúa.
Trái Tim Đức Mẹ trong suốt ánh
đức tin và tỏa sắc màu yêu
mến.
Thánh
sử Luca cho biết: Hằng năm, cha mẹ Đức
Giêsu trẩy hội đền Giêrusalem mừng
lễ Vượt Qua. Khi Người được
mười hai tuổi, cả gia đình cùng
lên đền, như người ta thường
làm trong ngày lễ. Xong kỳ lễ, hai
ông bà trở về, còn cậu bé
Giêsu thì ở lại Giêrusalem, mà
cha mẹ chẳng hay biết. Ông bà cứ
tưởng là cậu về chung với đoàn
lữ hành, nên sau một ngày đường,
mới đi tìm kiếm giữa đám bà
con và người quen thuộc. Không thấy
con đâu, hai ông bà trở lại
Giêrusalem mà tìm (Lc 2:41-45). Cha mẹ luôn
lo cho con cái, đặc biệt là trái
tim người mẹ sẽ không thể yên
được khi chưa biết con cái đang
làm gì và ở đâu, có được
bình an hay không.
Ngược
xuôi khắp nơi suốt ba ngày, hai ông
bà mới tìm thấy Con Trai trong Đền
Thờ, đang ngồi giữa các thầy dạy,
vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi.
Thở phào nhẹ nhõm. Ai nghe cậu nói
cũng ngạc nhiên về trí thông minh
và những lời đối đáp của
cậu. Họ ngạc nhiên vì biết Chàng
Trai Giêsu là con ai và ở đau, nhưng
đâu ai có thể ngờ rằng chính
Chàng Trai Giêsu đó lại là Đấng
Khôn Ngoan, là Con Thiên Chúa.
Khi
thấy con, hai ông bà sửng sốt, và
Đức Mẹ nói với Con Trai Giêsu:
“Con
ơi, sao con lại xử với cha mẹ như
vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây
đã phải cực lòng tìm con!”
(Lc 2:48). Đức Mẹ không thể im lặng
lúc này, vì trái tim người mẹ
chịu bất an mấy ngày qua rồi, khổ
lắm. Chắc hẳn Đức Mẹ cũng đã
khóc sưng cả mắt thôi. Đức
Thánh Giuse không nói gì, hoàn toàn
im lặng. Tình cha thâm trầm lắm, nhưng
lòng cha cũng bồn chồn đâu kém
lòng mẹ. Mất con thì có người
mẹ nào thản nhiên được!
Dĩ
nhiên Chúa Giêsu biết rõ cha mẹ
lo lắng lắm nên cũng thương lắm
chứ, nhưng Ngài vẫn nói: “Sao
cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết
là con có bổn phận ở nhà của
Cha con sao?”
(Lc 2:49). Vì “bổn phận ở nhà
Cha” còn cần hơn, vì là nhiệm
vụ tối quan trọng. Nhưng ông bà
không hiểu lời Người vừa nói.
Dĩ nhiên là vậy, vì hai vị cũng
chỉ là thụ tạo, chưa thể hiểu
được. Nói là nói vậy thôi,
nói để cha mẹ biết, Ngài thương
cha mẹ nên liền “đi xuống cùng
với cha mẹ, trở về Na-da-rét và
hằng vâng phục các ngài” (Lc
2:51a). Riêng Đức Mẹ thì “hằng
ghi nhớ tất cả những điều ấy
trong lòng” (Lc 2:51b). Tình Mẹ cũng
thâm trầm lắm!
Có
thể nói rằng chưa có ai trên đời
này hiểu được lý lẽ của
trái tim người mẹ. Trái tim người
mẹ trần gian còn chưa hiểu nổi,
huống chi Trái Tim Người Mẹ tâm
linh – Trái Tim Từ Mẫu Maria. Là
người cổ võ lòng sùng kính
Thánh Tâm Chúa Giêsu và Mẫu
Tâm Đức Maria, Thánh Gioan Eudes (1601-1680)
nói: “Trái
Tim Mẹ Maria là Trái tim Giáo Hội
chiến đấu, Giáo Hội tẩy luyện
và Giáo Hội vinh thắng”.
Cha
mẹ sinh dưỡng và hy sinh cả đời
vì con cái, nhưng không mong con cái
đáp lại. Mà con cái cũng không
bao giờ có thể đền đáp công
lao cha mẹ. Để báo hiếu cha mẹ,
con cái phải biết sống cho nên người,
có thể không thành công nhưng
phải thành nhân. Đó là báo
hiếu cha mẹ. Và cha mẹ cũng chỉ
mong con cái mình như thế.
Tương
tự, để tỏ lòng kính yêu
Đức Mẹ và thành tâm tôn
sùng Mẫu Tâm (một trong ba mệnh lệnh
Fátima), chúng ta phải nỗ lực noi
gương Anh Hai Giêsu, nghĩa là không
ngừng cố gắng “ngày càng thêm
khôn ngoan và thêm ân nghĩa đối
với Thiên Chúa và người ta”
(Lc 2:52). Được như vậy là chúng
ta làm vui lòng Đức Mẹ rồi đấy!
Thật
tuyệt vời với cách so sánh của
Thánh Bê-na-đô: “Thiên
Chúa đã quy tụ tất cả nước
lại một nơi gọi là biển, và
Ngài quy tụ mọi ân sủng nơi một
người là Mẹ Maria”.
Lạy
Thiên Chúa nhân lành, xin giúp chúng
con biết tôn thờ một mình Ngài
và tuân phục Thánh Ý Ngài mọi
nơi và mọi lúc, điều mà
Đức Mẹ đã chu toàn khi còn
tại thế. Lạy Thánh Mẫu Maria, xin giúp
chúng con biết mau mắn “xin vâng”
và khiêm nhường như Mẹ. Xin Chúa
và Mẹ biến niềm khao khát nên
thánh của chúng con thành sự thật.
Chúng con chân thành tha thiết cầu
xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng
cứu độ chúng con. Amen.
TRẦM
THIÊN THU
|