Đức Giêsu
chữa bệnh và nuôi đám đông dân chúng
(Suy
niệm của Lm. PX Vũ Phan Long)
1.-
Ngữ cảnh
Chúng ta nên đặt đoạn văn
này vào trong ngữ cảnh của nó là toàn khối từ
cuối chương 13 đến chương 17.
Đọc khối này, chúng ta nhận ra những ý
tưởng quan trọng:
1) Chương 13 cho hiểu rằng
Nước Trời đang tăng trưởng và bất
cứ người nào hiểu rằng mình được
kêu gọi đi vào đấy, thì phải lựa chọn
dứt khoát. Kể từ nay, chúng ta thấy cộng
đoàn của Đức Giêsu xuất hiện rõ nét
dần, được củng cố dần, mở ra
dần với đức tin (x. 14,33; 16,16), đào sâu
dần mầu nhiệm Đức Giêsu. Chính là nơi
cộng đoàn này mà người ta nhận ra Nước
Thiên Chúa đang hiện diện và ngày càng rõ nét. Chúng ta có
thể đặt tên cho toàn khối ch. 13-17 này: “Tiến
tới việc loan báo Giáo Hội”hoặc “Giáo Hội, hoa
quả đầu mùa của Nước Trời” hoặc
“Hành trình đức tin trong Giáo hội”, bởi vì qua các
chương này, Mt đề cập đến việc
đào tạo tiệm tiến cộng đoàn Giáo Hội.
2) Khối này mở ra với việc
dân Nadarét từ khước Đức Giêsu (13,53-58) và
kết thúc với câu chuyện cho thấy Phêrô
được Đức Giêsu cho gắn bó với
Người (17,24-27). Xuất hiện gương mặt
đe dọa của vua Hêrôđê, người đã
giết Gioan Tẩy Giả (14,13). Nhóm Pharisêu ngày càng tỏ
rõ thái độ hiềm thù đối với Đức
Giêsu (15,1tt.12; 16,1.4). Những thái độ đe dọa thù
nghịch khiến Đức Giêsu lo sợ, Người rút
lui về những nơi an toàn hơn hoặc tách biệt
hơn (14,13; 15,21).
3) Toàn khối này được xây
dựng quanh hai điểm: đức tin và hiểu biết:
-
Tác giả nói đến những người kém tin trong câu
truyện Phêrô đi trên mặt nước (14,31) và câu
truyện các môn đệ bàn tán về việc quên bánh
(16,8). Trong câu truyện Đức Giêsu chữa đứa
trẻ bị kinh phong, có một lời than: “Ôi thế
hệ cứng lòng không chịu tin …” (17,17). Mt là tác giả
duy nhất xác định rằng các môn đệ không
chữa lành được em bé vì họ kém tin.
Người cũng là người duy nhất ghi nhận
đức tin mạnh của bà Canaan (15,28).
- Ngài đã sử dụng động
từ hiểu 9 lần trong các chương này. Ở 15,10,
các đám đông được mời gọi nghe và
hiểu. Ở 15,16, các môn đệ bị gọi là ngu
tối (= không hiểu). Và cũng chỉ một mình Mt
đã ghi nhận rằng các môn đệ khi ấy mới
hiểu ra (16,12; 17,13) những gì cho tới nay họ
vẫn không hiểu.
Các ghi nhận này cho thấy, dọc theo
các chương này, tác giả Mt đặc biệt quan tâm
đến đức tin, nhất là đức tin của
các môn đệ, nhìn như một hành trình và như một
nỗ lực đào sâu và củng cố đức tin.
2.-
Bố cục
Bản văn này có thể chia làm ba
phần:
1)
Đức Giêsu chữa bệnh cho đám đông (14,13-14):
a) Hoàn cảnh (c. 13),
b) Đức Giêsu chữa bệnh (c.
14);
2)
Đức Giêsu nuôi đám đông (14,15-21):
a) Đức Giêsu đối thoại
với các môn đệ (cc. 15-18),
b) Đức Giêsu nuôi đám đông
nhờ trung gian các môn đệ (c. 19-20a);
3)
Kết luận: Ghi nhận về bánh hóa nhiều (cc.
20b-21).
3.- Vài
điểm chú giải
- nơi hoang vắng (13): dịch sát là nơi “sa mạc”.
Phép lạ hóa bánh ra nhiều tại sa mạc này khiến
chúng ta nhớ đến Môsê đã xin Chúa ban man-na cho
đoàn dân trong thời gian họ tiến đi trong sa
mạc để về Đất Hứa (x. Xh 16; Ds 11).
- chạnh lòng thương (14): dịch sát là “đau đớn
quặn thắt trong ruột”. Nhiều lần Mt ghi
nhận là Đức Giêsu “động lòng thương”
(esplanchnisthê: 9,36; 15,52) và bày tỏ lòng thương bằng
những hành vi cứu chữa.
- chiều đến (15): Ghi nhận là bài tường thuật
Đức Giêsu lập bí tích Thánh Thể cũng bắt
đầu với công thức chỉ thời gian này (26,20).
- năm cái bánh và hai con cá (17): Bánh và cá muối hoặc ngâm
dấm là những món thuộc về bữa ăn thông
thường của dân chúng.
- ngả mình trên cỏ (19): Chi tiết này cho hiểu đây là
thời gian trong mùa xuân, tức ám chỉ đến lễ
Vượt Qua. Anaklithênai, “ngả mình”, là động
từ gợi ý đến một bữa tiệc, bởi
vì khi ăn, các thực khách Do Thái “ngả mình” trên những
chiếc bàn thấp (đi-văng). Bài tường
thuật bí tích Thánh Thể cũng dùng một động
từ tương tự (“Chiều đến, Đức
Giêsu vào bàn tiệc” = ngả mình [anekeito] trên giường
tiệc; Mt 26,20).
- cầm lấy … dâng lời chúc
tụng … bẻ ra … trao cho (19): Đây là chuỗi động từ
được dùng trong bài tường thuật về bí
tích Thánh Thể (so sánh: Mt 14,19 // Mt 26,26: “cầm lấy”:
labôn/labôn; “bánh”: artous/arton; “dâng lời chúc tụng”:
eulogêsen/kai eulogêsas; “bẻ ra”: klasas/eklasen; “trao cho các môn
đệ”: edôken tois mathêtais/dous tois mathêtais). Việc bẻ
bánh luôn luôn là một nghi thức được thực
hiện trong bữa tiệc.
- … trao cho môn đệ. Và môn đệ trao cho dân chúng (19): Các
môn đệ là trung gian giữa Đức Giêsu và đám
đông. Mt dùng một động từ duy nhất (didômi,
“cho, trao cho”) để nói về hành động của
Đức Giêsu và của các môn đệ. Trong khi trong Mc
(6,41) và Lc (9,16), các tông đồ “mang; phân phát” (Mc:
paratithôsin; Lc: paratheinai) bánh cho đám đông, trong Mt, các ông
có nhiệm vụ đáp ứng nhu cầu của dân chúng
bằng cách tiếp nối công việc của chính
Đức Giêsu.
- những mẩu bánh còn thừa (20): Trong các bữa tiệc Do Thái, có
việc bẻ bánh trao cho nhau như một nghi thức.
Những mẩu bánh thừa khiến nhớ lại “nghi
lễ bẻ bánh”, tức bí tích Thánh Thể, mà các tông đồ
và môn đệ cử hành sau khi Đức Giêsu đã
về trời (x. Cv 2,42; 20,7).
- năm ngàn đàn ông (21): Không chắc đây là con số
chính xác (làm sao đếm xuể?). Có lẽ Mt muốn so
sánh Đức Giêsu với ngôn sứ Êlisa và cho thấy
Đức Giêsu vượt xa ngôn sứ này: Trong sách 2 V 4,42-44,
Êlisa đã hóa hai mươi cái bánh lúa mạch ra nhiều
để nuôi 100 người (từ 1 thành 5). Ở đây
Đức Giêsu đã hóa năm cái bánh ra nhiều để
nuôi 5000 người (từ 1 thành 1000). Vậy Đức
Giêsu cũng là một ngôn sứ có khả năng làm phép
lạ, nhưng cao trọng hơn Êlisa nhiều.
- giỏ (20): Cái giỏ (kophinos) để đựng các
đồ vật cũng là một đồ dùng để
đo thể tích (khoảng 10 lít).
4.- Ý
nghĩa của bản văn
Câu truyện Đức Giêsu nuôi đám
đông hôm nay có thể khiến chúng ta nhớ đến
giai thoại man-na trong hoang địa (Xh 16,11-36; Ds 11), Êlisa
nuôi đám đông (2 V 4,32-44), câu truyện tiệc
cưới Cana (Ga 2,1-12), cũng như các bữa ăn
Đức Giêsu chia sẻ với những người khác.
Dù thế, hẳn là có thật một hoàn cảnh ngặt
nghèo, đói khát.
- Đức Giêsu chữa bệnh cho
đám đông (13-14)
Hoàn cảnh lúc đó là một lần
nữa, Đức Giêsu lại muốn lánh đi về
một nơi hoang vắng riêng biệt vì bị giới
lãnh đạo đe dọa (x. 12,15). Tuy nhiên, đám đông
dân chúng biết tin liền đi theo Người. Đây
không phải là lần đầu tiên Mt cho thấy
Đức Giêsu có đám đông đi theo (x. 8,1; 12,15).
Vẫn chính là Người hướng dẫn cộng
đồng những kẻ lưu đày về quê
hương. Lần này, đám đông thậm chí còn đi
trước Người, đưa theo những
người bệnh, và hẳn là cả các niềm hy
vọng của họ (c. 14). Đức Giêsu không bực
bội nóng giận vì dân chúng làm mất sự yên tĩnh,
cũng không tỏ ra lãnh đạm với đoàn dân;
Người thương cảm họ sâu xa (esplanchnisthê),
hẳn cũng vì một lý do như ở 9,36 (x. 15,32; 20,34;
đọc thêm: vì “thương xót” [eleeô]: 9,27; 15,22; 17,15;
20,30-31): “vì họ lầm than vất vưởng, như
bầy chiên không người chăn dắt”. Thế là
Người lại hòa mình vào giữa đám đông
để chữa bệnh cho họ. Hành vi đầu tiên
Người làm lúc này là chữa bệnh: các sự dữ
không chỉ được khoan nhượng, mà còn bị
loại trừ. Sau những ca chữa bệnh “cụ thể”,
khó mà nói rằng việc nuôi đám đông chỉ có tính
biểu tượng hoặc bí tích; hẳn đây cũng là
một phép lạ “cụ thể”.
- Đức Giêsu nuôi đám đông
(15-21)
Khi chiều đến, các môn đệ
là những người thực tế, đánh giá tình hình
khách quan, đã đến đề nghị Đức
Giêsu giải tán đám đông, để họ có thể
tùy nghi vào các làng mạc mà mua lương thực. Chi
tiết này cho thấy họ không nhất thiết là
những người “khố rách áo ôm”. Chẳng những
không đồng ý, Đức Giêsu còn yêu cầu các ông cho
đám đông ăn. Đây là một yêu cầu rất
thiếu thực tế, mà chính Đức Giêsu biết. Tác
giả phác họa ra Người như một bề trên,
Chúa tể tối cao ra lệnh cho các môn đệ làm
một việc dường như không thẻ làm nổi,
nhưng người thì biết chính xác Người sẽ
làm gì. Người chỉ muốn các môn đệ cộng
tác với Người để làm công việc cung cấp
lương thực cho dân chúng. Khi các môn đệ tỏ ra
ngại ngùng, vì chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá (c.
17), Người không trả lời họ; Người
bảo mang cá và bánh lại cho Người (c. 18).
Với một lệnh một lần
nữa gợi ra uy quyền tối thượng của
Đức Giêsu, tác giả đưa vào truyện phép
lạ. Ngài không ghi lại chi tiết phân thành các nhóm một
trăm và năm mươi như Mc 6,40. Đức Giêsu
cầm lấy bánh và cá, ngước mắt lên trời
(không phải là cử chỉ thông thường của
người Do Thái khi cầu nguyện, dù có thể làm), dâng
lời chúc tụng Thiên Chúa (chứ không phải là làm phép
bánh và cá), rồi bẻ ra, tao cho các môn đệ; các môn
đệ phân phát cho dân chúng. Với những công thức
này, một độc giả Kitô hữu gốc Do Thái
nhớ tới những bữa ăn trong gia đình,
tại nhà thờ và Bữa Tối của Chúa. Họ
hiểu rằng bài tường thuật trước tiên
kể lại một phép lạ, nhưng cũng nhắc
họ nhớ đến bữa tiệc Thánh Thể.
Quả thật tác giả nhắc lại những công
thức của bài tường thuật về bí tích Thánh
Thể nhằm nhắc lại và cũng giới thiệu
trước bài tường thuật về việc
thiết lập bí tích Thánh Thể.
Biến cố này là một hình ảnh
về Giáo Hội, nên cũng cần được
giải thích theo hướng đó. Đức Giêsu ở
tại trung tâm, Người là nguồn mạch ban phát
mọi ân huệ, Người ban lời và bánh. Rồi
đến nhóm nhỏ các môn đệ bao quanh Người.
Họ ở sát bên Người, họ chuyển thông các ân
huệ của Người, họ như là cánh tay
Người nối dài ra. Đám đông được
Đức Giêsu quy tụ lại thì ngồi xung quanh các ngài:
họ vui sướng được ở với
Người. Đức Giêsu ngước mắt lên
trời khi đọc lời chúc tụng. Người làm
những việc “Chúa Cha giao cho Người hoàn thành” (x. Ga
5,36). Người không còn chỉ là vị trung gian như
Môsê, hay chỉ là một ngôn sứ nhỏ như Êlisa ngày
xưa. Nay Người chính là Đấng ban sự
sống, bởi vì Người là nguồn sự sống.
Tương quan giữa hai mươi cái bánh của Êlisa
với một trăm người được ăn no
(1 thành 5) và năm chiếc bánh của Đức Giêsu
với năm ngàn người được no nê (1 thành 1000)
nêu bật sự trổi vượt của phép lạ
thứ hai. Đức Giêsu là một ngôn sứ và một
Đấng làm phép lạ, nhưng cao cả hơn Êlisa
nhiều.
- Kết luận: ghi nhận về bánh
hóa nhiều (20b-21)
Chi tiết “mười hai giỏ
đầy” (c. 20) những mẩu bánh thừa không có
điểm tựa nào khác trong bài để độc
giả có thể nói rằng chi tiết này quy về
mười hai môn đệ hay mười hai chi tộc Israel. Chúng ta chỉ có thể nói: như
vậy đám đông đã được ăn no. Bản
văn hẳn cũng song song với truyện phép lạ
man-na, cũng xảy ra trong hoang địa trước
đám đông dân chúng (x. Xh 16; Ds 11). Bánh và cá hôm nay thay
thế cho man-na và chim cút ngày xưa. Với những dấu
lạ này, Đức Giêsu xuất hiện như nhà
giải phóng của thời cuối cùng. Nhờ năm
chiếc bánh, tượng trưng năm quyển sách
của Torah mới (Ortensio da Spinetoli), Đức Giêsu nuôi
đoàn dân Thiên Chúa đang tiến về đất
hứa. Những chi tiết này đặt sánh đôi
Đức Kitô với Môsê, Họi Thánh với cộng
đoàn Xuất Hành. Hôm nay, nhà giải phóng đích thực,
vị mục tử, nhà lãnh đạo dân Thiên Chúa, dẫn
dắt một đoàn dân bị bỏ rơi và đang
tiến đi trong sa mạc trần gian này, là một mình
Đức Giêsu. Trong nền văn chương kinh sư,
bữa tiệc là biểu tượng của cộng
đoàn cánh chung (hiệp thông đời sống: St 31,54; Xh
18,12; 1 Sm 9,12; Am 2,8; Hs 8,13; và niềm hạnh phúc thời
thiên sai: Is 48,21; 49,9-10; 55,1; 65,13; Dc 5,1; Is 25,6; Tv 23,1-5).
Việc Đức Giêsu quy tụ các môn đệ và dân chúng
ở bờ hồ như thế trở thành nghi thức
khai mạc thời đại mới. Sa mạc, nơi
đầy những thử thách và gai góc, đã trở thành
một khu vườn.
+ Kết
luận
Đức Giêsu quả là Đấng có
quyền trên bệnh tật và sự đói khát. Một
lần nữa, dân chúng trải nghiệm về quyền
lực và sự quan tâm của Đấng Mêsia. Biến
cố được kể trong bản văn này là
một hình ảnh về Hội Thánh. Đức Giêsu ở
ngay trung tâm, Người là nguồn mạch từ đó
phát xuất mọi ân huệ, Người chữa lành, ban
Lời và bánh. Kế đó là nhóm nhỏ các môn đệ.
Các ông ở ngay bên Đức Giêsu, các ông chuyển giao các ân
huệ Người ban, các ông là như cánh tay nối dài
của Người. Dân chúng được quy tụ
lại thì ngồi chung quanh Người; họ sung
sướng được ở với Người.
Đức Giêsu ngước mắt lên trời mà
đọc lời chúc tụng. Người hướng
về Thiên Chúa là Cha của Người, là Đấng mà
Người luôn tìm biết ý muốn để chu toàn (x. Mt
11,25-27). Bây giờ Đức Giêsu không chỉ còn là một
trung gian như Môsê xưa kia nữa; Người chính là
Đấng ban sự sống, bởi vì Người là
nguồn mạch từ đó phát xuất ra sự sống.
5.-
Gợi ý suy niệm
1. Các môn đệ cần quan tâm học
hỏi cách xử sự của Đức Giêsu: cứu
chữa. Nhưng họ chỉ có thể học
được bài học này, nếu họ có trái tim
của Đức Giêsu: thương cảm sâu sắc
trước tình cảnh của người anh em chị
em, tức là biết quan tâm đến hoàn cảnh sống
của anh chị em mình, với trá tim đầy tình yêu
thương.
2. Phép lạ đặc biệt nhắm
đến các môn đệ. Có thể họ còn yếu
đức tin, nhưng họ đã trải nghiệm
quyền năng từ bi của Chúa họ. Họ sẽ
còn trải nghiệm về điều này lần nữa
(15,32-39). Qua những kinh nghiệm đó, họ sẽ
hiểu (16,5-12). Đàng sau các môn đệ là Hội Thánh:
trong cuộc sống chia sẻ với Đức Chúa
Phục Sinh, qua những bữa ăn, và trong mỗi Thánh
Lễ, Bữa tiệc của Chúa, Hội Thánh lại
sống biến cố hóa bánh ra nhiều tại bờ
hồ hôm ấy.
3. Không được quá đề cao
cơm bánh vật chất (x. Mt 6,25-26), nhưng cũng không
được quên cơm bánh vât chất (6,11). Phải
nghĩ đến việc nuôi dưỡng bản thân
(6,11), nhưng cũng phải quan tâm đến việc nuôi
sống người khác. Người Kitô hữu không
được ăn uống một mình, vì luôn ở
giữa một đoàn anh chị em đang chờ
đợi thức ăn họ thiếu. Họ phải
đi ra khỏi tình trạng cô lập mà sống trong
cộng đoàn và trong sự hiệp thông với mọi
người. Bài học hôm nay cho hiểu rằng họ
chỉ việc dâng cho Đức Giêsu chút tài nguyên ít ỏi
của mình, rồi làm theo sự hướng dẫn
của Người.
4. Trong khi trong bản văn Ga 6, các tông
đồ không có sáng kiến nào, trong các Tin Mừng Nhất
Lãm, chính các ông lưu ý Đức Giêsu, trao đổi
về cách cung cấp các nhu yếu phẩm cho đám
đông, cuối cùng nhận được nhiệm vụ
phân phát bánh và thu gom các mảnh vụn còn dư. Các môn
đệ nhận lệnh đưa bánh và cá, chuẩn
bị và phục vụ bữa ăn. Công việc của
các ông nối dài công việc của Đức Giêsu. Hôm nay,
các mục tử cũng không thể bỏ mặc đoàn
chiên thiếu lương thực thiêng liêng và nhất là
lương thực Thánh Thể.
5. Mỗi khi tham dự thánh lễ, các
tín hữu sống một biến cố mang tính Giáo
Hội: họ vây quanh Đức Giêsu, họ chia sẻ
chính Mình Máu Người. Sau đó, họ được
mời gọi ra đi (Ite, missa est: “Lễ đã xong, anh
chị em hãy ra đi (loan báo Tin Mừng)”) để,
cũng như Đức Giêsu, họ trở thành “tấm
bánh” nuôi dưỡng nhân loại và kiến tạo một
thế giới mới.
|